Có sự khác biệt hay không trong việc siêu độ cho một vong linh 80 tuổi và một vong linh 8 tháng tuổi?
Một đứa bé lìa đời khi còn quá sức nhỏ, phải hiểu rằng: đứa nhỏ đó mất đi vì bệnh tật, chớ không phải là không có lý do. Mà nếu vì bệnh tật thì, nó mang bệnh tật để làm gì? Để khiến cho cha mẹ nó phải bỏ thì giờ, bỏ tiền bạc, bỏ công sức để chăm sóc cho nó. Một khi đã đủ số mà nó muốn đòi rồi, lúc đó nó sẽ ra đi. Dưới cặp mắt của người Đời, đứa bé đó đoản mệnh, có nghĩa là không sống thọ. Nhưng, dưới cặp mắt của một người tu chân chính, hiểu đạo, họ biết rằng: nghiệp lực giữa đứa bé và cha mẹ nó đã chấm dứt. Chủ nợ chính là nó. Con nợ chính là cha mẹ nó. Chủ nợ đã đòi đủ số rồi thì chủ nợ ra đi.
Cho nên, siêu độ cho một đứa bé là giúp cho nó được nhẹ nhàng bước qua một kiếp mới và theo nghiệp lực kế tiếp của nó mà đi. Người chủ lễ phải giảng cho cái vong này hiểu được rằng: nghiệp lực giữa nó và cha mẹ nó đã chấm dứt rồi, bây giờ thì đường ai nấy đi. Người chủ lễ sẽ giúp cho nó được nhẹ nhàng để ra đi, theo nghiệp kế tiếp của nó. Tuy nhiên, nếu người chủ lễ có dạ từ bi, thì cũng sẽ siêu độ cho đứa bé này trong 49 ngày, bằng cách sám hối. Sám hối để chi? Để cho cái vong nhỏ bé này, tuy rằng nó mang thân nhỏ bé khi nó mất đi, nhưng nó vẫn là một thần thức lớn, giúp cho nó sám hối, niệm Phật để có lợi cho nó ở kiếp tới, nghiệp lực kế tiếp của nó dẫn đường sẽ nhẹ nhàng hơn. Sỡ dĩ nó mất đi khi nó còn quá nhỏ, là vì nghiệp lực giữa nó và cha mẹ nó cũng chỉ có bấy nhiêu thôi!
Việc giảng Pháp cho một vong linh 80 tuổi và một vong linh 8 tháng tuổi, vẫn không có gì khác biệt cả. Điều quan trọng chính là sám hối, sám hối và sám hối. Tại vì sao? Vì không có bất kỳ một thần thức nào thoát được nghiệp lực cả! Đã làm Người mà còn không thoát được nghiệp lực, huống chi là một thần thức? Ở dạng của một thần thức, hay ở dạng của một thân người, thì cũng vẫn phải bị chi phối bởi nghiệp lực. Nhưng nếu gặp được Thiện Tri Thức dẫn dắt, nghiệp lực kế tiếp dẫn đường cho thần thức đó sẽ làm cho mọi việc nhẹ nhàng hơn, thần thức đó sẽ đi về một hướng tốt đẹp hơn.
Cho nên, vẫn phải hướng dẫn cho thần thức sám hối và niệm Phật. Nên nhớ rằng: lời nguyện của Đức A Di Đà Phật không phải chỉ dành cho người sống, mà còn đối luôn với người chết nữa. Vì vậy mà phải giúp cho người chết niệm Phật rất là nhiều. Nếu họ quyết tâm tu tập, thì sự rung động của họ có thể hoán chuyển nghiệp nặng thành nhẹ, từ cảnh giới thấp có thể lên được cảnh giới cao hơn. Sau 49 ngày, việc họ được vãng sanh về Cực Lạc là việc vẫn có thể xảy ra, chớ không thể nói rằng: không bao giờ có thể xảy ra.
Tóm lại, lời Pháp rất là quan trọng, vì đó là một cách thức để dẫn dắt một chúng sanh. Dù rằng đã bỏ thân rồi, chúng sanh đó vẫn có thể được dẫn dắt để hướng thượng, để đi về một cảnh giới cao hơn.
Đã là một cái vong thì không còn sự cản trở về ngôn ngữ nữa. Tất cả những cản trở về sự hiểu biết, về ngôn ngữ là do ở ngũ căn, thoát được ngũ căn, sẽ không còn bị cản trở nữa. Người tu tập chân chính khi đã đạt thành đạo quả, cũng sẽ hiểu được những cái gì mà ngoài tầm với của ngôn ngữ.
Đó là một điều vô cùng thú vị! Nhờ có cảm nhận được hết tất cả mọi thứ ngôn ngữ, người tu đắc đạo mới có thể hành sử được việc cứu độ chúng sanh. Cứu độ chúng sanh, không phải chỉ cứu độ cho những người cùng tiếng nói với mình, mà còn cứu độ cho tất cả những chúng sanh khác, không cùng ngôn ngữ với mình, và đôi khi cả với những loài vật nữa. Tuy nhiên việc này còn xa tầm với của chúng sanh!
Khi người chủ lễ giảng Pháp cho vong nghe, nếu không đồng ngôn ngữ cũng vẫn không sao cả. Vong cảm nhận được tất cả mọi điều mà người chủ lễ muốn bày tỏ với vong qua cái THỨC.
Ngày thứ 49 là ngày mà vong chánh thức bước vào một cảnh giới mới, làm sao biết được vong đã ra đi?
Muốn biết được vong đã ra đi chưa, người chủ lễ phải giữ Tâm Bình mới có thể nhận được cảm giác đó.
Khi khóa lễ đến phần niệm Phật, vị chủ lễ có thể nhờ một vài thân nhân hay bạn bè quen biết, thành tâm cùng niệm Phật để “tăng sức”, để “cổ võ” cho hương linh. Trong lúc đó, vị chủ lễ khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát để nhờ Ngài tiếp dẫn hương linh. Trong thời gian Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát cùng quyến thuộc của Ngài làm việc, vị chủ lễ sẽ đem hết tâm thành niệm danh hiệu của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát trong khoảng từ 10-15 phút. Sau 15 phút, tiếng niệm Phật chấm dứt, vị chủ lễ ngồi lại tịnh tâm thì có thể cảm giác được là vong vẫn còn hiện diện hay đã đi rồi. Điều này khó diễn tả bằng lời, nó tùy thuộc vào trạng thái Bình của người chủ lễ khi đó. Tuy nhiên, nếu trong suốt 49 ngày, việc siêu độ được hành trì với một tấm lòng tha thiết, với một chân tình thật là sâu sắc, vị chủ lễ tận tâm giảng dạy, dẫn dắt vong linh qua từng lời khuyên, từng lời Pháp, chắc chắn rằng trí huệ của vong linh sẽ bừng sáng, thần thức chân thành rung động, vong linh hoán chuyển cảnh giới rất dễ dàng.
Nếu người chủ lễ có Đạo Lực, việc cảm nhận cũng không khó khăn đâu, chỉ cần người chủ lễ giữ tâm Bình thì sẽ cảm nhận được ngay. Điều này cũng giống y như việc, có uống ly nước rồi, mới biết ly nước đó lạnh hay nóng? Rất khó diễn tả bằng lời lắm!
Còn đối với người chủ lễ không có Đạo Lực, cũng vẫn phải giữ Tâm Bình mới cảm nhận được vong linh đã ra đi chưa? Tuy nhiên, việc đó xem như là một món quà mà thôi.
Khi người chủ lễ khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát để nhờ Ngài dẫn dắt cho vong linh, công việc của Ngài là đưa vong linh đi theo đúng cảnh giới của vong. Điều này đòi hỏi, trong suốt 49 ngày, người chủ lễ dù cho có Đạo Lực hay không có Đạo Lực, có thành tâm thành ý, có đem hết sức của mình ra để siêu độ cho vong linh hay không? Và việc siêu độ có đi từng bước một theo sự hướng dẫn trong quyển sách hay không? Nếu người chủ lễ làm đầy đủ hết tất cả mọi việc ghi trong quyển sách, kèm theo một tâm thành của mình, điều đó nói lên được rằng, người chủ lễ đã giúp cho vong linh tu tập trong suốt 49 ngày.
Nếu đã giúp được cho vong linh tu tập trong suốt 49 ngày, thì chắc chắn rằng vong linh sẽ được Ngài Địa Tạng đưa đi vào ngày thứ 49. Mỗi ngày, vị chủ lễ đều có khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, Ngài sẽ để tâm theo dõi việc tu tập của vong linh, và Ngài cũng hỗ trợ để cho vong linh tu tập.
Cho nên, nếu vị chủ lễ không cảm giác được việc ra đi của vong, cũng đừng thắc mắc, không sao cả! Nếu làm đúng hết các bổn phận, các chỉ dẫn, đem hết tâm thành của mình ra để siêu độ cho vong, chắc chắn rằng vong sẽ đi về đúng cảnh giới mà vong đã chọn lựa.
Một điều quan trọng, quan trọng vô cùng mà người chủ lễ phải ghi nhận là: nếu đã có sự Thành Tâm, Thành Ý siêu độ, thì chắc chắn rằng vong không bao giờ bị đọa vào Tam Đồ. Sẽ chỉ có 3 cảnh giới mà vong được chọn lựa, đó là: Cõi Phật, Cõi Trời và Cõi Người mà thôi. Đó là món quà quý giá dành cho người chủ lễ đối với vong linh, mà đó cũng là món quà của vong nếu vong chịu khó tu tập trong 49 ngày. Cho nên, chỉ vỏn vẹn có 49 ngày mà giúp cho một thần thức được thăng hoa, thì thời giờ mình bỏ ra, công sức mình đưa ra, không có gì là quá đáng. Tất cả đều được đền bù một cách tương xứng.
Nếu hành trì đúng việc siêu độ thì cảnh giới thấp nhất để vong thác sanh, sẽ là cảnh giới NGƯỜI, việc đọa TAM ĐỒ, chắc chắn là không!
Tại sao Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát không thể tiếp dẫn được cho một vong linh không tu tập, không sám hối, không buông xả, để đi về một cảnh giới, mà bắt buộc người chủ lễ phải giúp cho vong tu tập trong 49 ngày, rồi sau đó, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát mới có thể giúp cho vong đi một cách dễ dàng?
Vong phải tự phát nguyện sửa đổi mình!
Phải nhớ rằng: Một Con Người hiện diện trên cõi Đời là để làm gì? Để trả nghiệp, và sau đó, nếu không biết tu tập, thì lại tiếp tục tạo nghiệp; còn nếu biết tu tập, thì chỉ lo trả nghiệp và ngừng việc tạo nghiệp.
Nếu bây giờ một người đến để trả nghiệp, rồi lại tạo nghiệp, không biết trả được bao nhiêu nghiệp, mà lại tạo thêm nghiệp, thì chắc chắn rằng, nghiệp lực mà người đó mang, phải lên cao chớ không xuống thấp. Bây giờ người đó mất đi, mà vẫn còn mang những cái nghiệp, hoặc trả chưa xong, hoặc trả được một phần, hoặc có khi trả được rồi, nhưng vì tạo thêm nghiệp, cho nên nghiệp chất chồng, vong linh đó phải làm sao để được ung dung tự tại muốn đi đâu thì đi?
Lấy thí dụ: một người bị giam cầm trong ngục thất, nếu người đó tỏ ra ăn năn sám hối, sửa đổi con người của mình, làm được nhiều điều tốt đẹp, chứng tỏ là tôi đã có một sự sửa đổi thật sự, trở thành ra người tốt, người hữu dụng, khi đó, quan tòa mới có thể xem xét trường hợp của người này để quyết định nên cho người này được tự do ngay hay là hưởng trường hợp giảm khinh, thu ngắn thời gian giam cầm lại.
Một vong linh cũng y như vậy. Lìa khỏi trần thế ra đi, nếu một người có được huệ nhãn, sẽ thấy được rằng, vong linh đó không có đi một cách nhẹ nhàng đâu, mà phải lôi, phải kéo. Lôi kéo cái gì? Lôi kéo những nghiệp lực của mình. Tùy theo mỗi vong linh, mà sự lôi kéo đó sẽ nặng nề nhiều hay ít.
Một vong linh lôi kéo cái gánh nặng như vậy, liệu rằng có thể đi đâu xa được hay không? Chắc chắn là không thể đi đâu xa được hết, nếu không muốn nói là giậm chân tại chỗ.
Nếu bây giờ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát chận vong linh đó lại, và nói rằng: “Muốn đi về đâu? Ta sẽ giúp cho.”
Vong linh đó chỉ rằng: “Tôi muốn đi về hướng đó.”
Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát có thể giúp cho vong linh đó đi, nhưng vì cái gánh ở ngoài sau quá nặng, vong linh đó cũng vẫn không đi được. Dù cho Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát có lôi có kéo họ, họ cũng vẫn không đi được. Những nghiệp lực mà vong linh mang theo, có một sức hút rất đặc biệt là nó trì lại, vong linh muốn đi tới, nhưng chính nó trì lại, và khiến cho không lôi kéo được cái gánh nặng đó.
Vì vậy mà Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng đành phải bó tay, trước nghiệp lực của một vong linh.
Chỉ có người chủ lễ, với vai trò Thiện Tri Thức, mới có thể giúp cho vong linh hiểu rõ một cách thâm sâu, là làm thế nào để có thể mất đi cái tầm ảnh hưởng của sức hút của gánh nặng đó. Mà muốn làm giảm đi cái sức hút đó, vong linh phải biết sám hối.
Sám hối với ai? Sám hối với cái gì? Chính là sám hối với những nghiệp lực mà vong linh đã mang theo đó.
Với vai trò là một thiện tri thức, người chủ lễ sẽ chỉ dẫn cho vong linh biết cách sám hối, cách trì Chú, cách niệm Phật.
Để chi?
- Để thể hiện sự ăn năn, hối hận của mình đối với những nghiệp lực mà mình đã mang theo, để làm giảm đi sức trì lại của cái gánh nặng.
- Nhờ có sám hối, nhờ có trì Chú, nhờ có niệm Phật mà Trí Huệ của thần thức được sáng lên.
Một mặt thì giảm sự trì kéo của nghiệp lực mà mình đang mang theo đó, một mặt thì trí huệ được phát sáng, nhận chân ra được mình phải đi về đâu. Lúc đó vẫn phải nhờ đến sự giúp đỡ của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, đưa đi đến đúng cảnh giới của mình. Nhờ có ánh sáng chỉ đường, cho nên biết được đi về đâu, nhờ sức trì kéo được giảm đi, vong linh sẽ đi dễ dàng hơn, với sự giúp sức của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát. Nên nhớ rằng, trong vấn đề siêu thoát, phải do chính tự thần thức rung động.
Thần thức rung động có nghĩa là gì? Có nghĩa là thần thức nhận chân ra được rằng, cái gánh nặng mà mình kéo đó, chứa toàn là nghiệp lực của mình, mà những nghiệp lực đó là do chính mình tạo nên, thì bây giờ mình phải biết ăn năn sám hối, với những người mà mình đã gây tạo nghiệp chướng. Không thể nói rằng, tôi tha hồ tạo tác, rồi bây giờ thì nhởn nhởn nhơ nhơ, muốn làm gì thì theo tự ý mình. Như thế là không được!
Cõi Âm cũng như Cõi Dương, tất cả đều có một sự bình đẳng ngang nhau, không có vấn đề muốn làm gì thì làm. Tu tập là một sự hoán chuyển từ bên trong của mình, để làm gì? Để làm cho Tâm thức của mình ngời sáng lên, cho Ý thức của mình rực rỡ thêm, cho Tánh xấu của mình giảm bớt xuống. Cho nên sự hoán chuyển phải đi từ ở bên trong, chớ không phải do ở bên ngoài tác động vào.
Do đó, việc Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giúp đỡ là một tác động từ bên ngoài, nhưng muốn nhận được sự giúp đỡ đó, thần thức phải có một sự hoán chuyển từ ở bên trong.
Tóm lại, tu tập là phải tự lực trước, rồi sau đó mới cầu đến tha lực; dù tha lực đó là Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát hay là Đức A Di Đà Phật, hay ai đó cũng vậy, then chốt vẫn là cá nhân đó phải tự lực trước.
Không có tự lực thì như người đeo đá, mà đá đó không phải đá bình thường, mà là đá nam châm, cho nên hút xuống, không gỡ lên được. Nếu là một cục đá bình thường, thì trong mười phương, Chư Phật và Bồ Tát hằng hà sa số, đủ để cứu vớt hết tất cả chúng sanh trong cõi Ta Bà rồi.
Mười phương chư Phật, chư Bồ Tát, Chư Thiên, chư Thánh, tất cả sẵn sàng tiếp dẫn các vong linh. Nhưng, tiếp dẫn là đem xe đến nơi để chở đi, các vong linh phải tự bước lên chiếc xe, nếu không bước lên được, thì xem như đã lỡ chuyến xe rồi.
Mà bước lên không được chỉ vì bị sức trì xuống. Cho nên, giúp cho thần thức tu tập là giúp cho thần thức làm tiêu đi tính chất trì hút của tảng đá nghiệp lực mà mình phải đeo.
Có cần phải đốt Kinh, đốt chuỗi cho vong hay không, để cho vong linh có thể đọc Kinh, lần chuỗi, niệm Phật?
Không cần phải như vậy đâu. Mỗi ngày người chủ lễ đã mời vong về để tu tập rồi. Vong tu tập với người chủ lễ, vong niệm Phật với người chủ lễ và vong niệm Phật với máy niệm Phật, cho nên không cần thiết phải đốt Kinh, đốt chuỗi cho vong đâu.
Nếu vong linh là những đứa trẻ nhỏ, cúng thức ăn cho trẻ thơ có phải dùng đến sữa hoặc là dùng đến những thức ăn dành riêng cho trẻ thơ hay không?
Hình dạng của một trẻ thơ, nhưng là một thần thức lớn, không phải là thần thức của một bé thơ đâu! Về vấn đề này, khi nhìn về hình dạng thì, đối với một đứa trẻ thơ chỉ mới một hai tuổi hay một vài tháng tuổi, không thể nào cúng cho những vong linh đó những thức ăn của người lớn được.
Vì người đời nhìn vào hình tướng để đoán xét mọi việc, cho nên có sự phân biệt giữa trẻ thơ và người lớn. Thật sự ra, trẻ thơ hay người lớn, đều cùng có một Thần Thức lớn. Không thể nói rằng: trẻ thơ thì Thần Thức nhỏ, còn người già thì Thần Thức già, không phải như vậy.
Đã cùng là Thần Thức lớn, thức ăn nào cũng hấp thụ được cả. Vong không thể đưa thức ăn vào miệng được, vong không nhai, không nuốt được, chỉ là hưởng hơi thôi, mà đã là hưởng hơi thì bất kỳ thức ăn nào cũng được, không có sự phân biệt về tuổi tác.
Tuy nhiên, người đời căn cứ vào hình tướng, cho nên trẻ thơ thì phải cúng bằng sữa, cúng bằng những thức ăn của trẻ thơ. Cũng không sao, như thế nào cũng được, không có điều gì quan trọng cả. Đừng quên trì Chú Khai Yết Hầu để giúp cho vong linh có thể hấp thụ được hơi đồ ăn.
Giúp sao cho cái Thức của vong linh được sáng lên, đó mới là điều đáng quan tâm.
Việc cúng cho vong có nhất thiết phải vào một giờ giấc nào nhất định hay không? Hoặc là tùy thuộc vào giờ giấc của người chủ lễ?
Nhà chùa chỉ đảm nhận việc siêu độ cho vong linh mỗi tuần 01 lần mà thôi. Tức là vong linh sẽ chỉ có vỏn vẹn 07 ngày để được siêu độ, so với 49 ngày ròng rã của thân nhân siêu độ cho vong linh.
Việc siêu độ cho vong linh tùy vào sự sắp xếp của thân nhân. Nếu thân nhân có nhiều thì giờ, có thể làm 2 lần trong một ngày; nếu không có nhiều thì giờ, làm 1 lần trong ngày cũng đủ. Giờ giấc tùy vào sự sắp xếp của thân nhân hay của người chủ lễ, không nhất thiết phải có giờ giấc cố định, miễn là đừng làm vào quá khuya, bước qua ngày hôm khác thì không tốt đâu.
Nên nhớ rằng: vong linh cần từng ngày một, do đó, giúp đỡ cho vong linh đừng để bước sang một ngày khác, uổng mất một ngày siêu độ cho vong linh.
Một ngày qua là một ngày giúp cho vong linh sám hối, giúp cho vong linh niệm Phật, giúp cho vong linh trì Chú, và giúp cho vong linh nghe Pháp, hiểu Pháp. Mất đi một ngày là mất đi bao nhiêu quyền lợi, mất đi bao nhiêu điều tốt đẹp cho vong.
Nếu trong trường hợp hỏa thiêu, tro cốt mang về nhà phải đợi đến bao giờ mới có thể thủy táng được?
Trong trường hợp hỏa thiêu, tro cốt mang về nhà để trên bàn thờ vong; sau 49 ngày, vong đã được đi thác sanh rồi, lúc đó có thể đem tro cốt để đi thủy táng. Tro cốt dù sao cũng là một biểu tượng của thân xác của vong linh, không nên đem đi thủy táng trong lúc còn siêu độ cho vong linh, để tránh việc vong linh có thể Sân Hận. Như vậy có nghĩa là, phải chờ đợi sau 49 ngày, mới có thể mang tro cốt đi thủy táng được.
Nghi Thức Thủy Táng Hoặc Sơn Táng
Nguyên tắc đúng là, khi vong đã được thác sanh rồi thì đem tro cốt đi thủy táng hoặc sơn táng hay để bất kỳ nơi nào cũng được. Trước khi rải tất cả những tro cốt đó xuống nơi mình muốn, thì có lời khấn nguyện rằng:
“Hôm nay, tôi đem tro cốt của hương linh (tên gì đó, mất ngày nào đó), để thủy táng (hay sơn táng). Tro cốt này là một thể hiện của cái có của hương linh. Cái có đó chính là thân xác. Nhưng ngày nay, thân xác này đã trở thành KHÔNG. Sự vô thường có – không, không – có; tất cả đều trở về với cát bụi, hương linh với một thần thức sáng suốt, đã được siêu thoát, đã được thác sinh. Thân xác này, hương linh không còn nhận nó làm vật sở hữu của mình nữa. Ngày nay, cát bụi xin trả trở về cho cát bụi, hương linh ung dung tự tại nơi Cõi Trời hay Cõi Phật.”
Chỉ khấn bao nhiêu đó là đủ rồi. Cái chánh yếu trong thân xác đó đã không còn hiện hữu trong cái xác đó nữa, đã được thác sanh về Cõi Trời, hay cõi Phật hoặc cõi Người rồi. Cho nên muốn niệm Phật cũng tốt, không niệm Phật cũng không sao.
Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là lúc rải tro cốt đâu, mà điều quan trọng là, sau 49 ngày, thân nhân nên vẫn còn tiếp tục tu tập, để giúp gia tăng phần trí huệ cho hương linh. Vì sao?
Vì đúng lý ra, hương linh không được về Cõi Trời hay Cõi Phật, nhưng vì một lòng thành tu tập mà hương linh được đặc ân để hoán chuyển cảnh giới của mình, cho nên nói nôm na là, vẫn còn yếu ớt! Vì vậy, thân nhân vẫn nên tiếp tục tu tập, làm hạnh bố thí, in Kinh, đúc tượng … hồi hướng cho hương linh, giúp cho hương linh được mạnh mẽ hơn ở cảnh giới mới đó, và cũng giúp cho hương linh được an trụ lâu dài nếu ở Cõi Trời.
Còn nếu về cõi Người, cũng giúp cho hương linh tích tụ được nhiều phước đức cho một cuộc đời mới của mình.
Do đó, không phải sau 49 ngày là hoàn tất việc siêu độ đâu!
Việc siêu độ chấm dứt trên danh nghĩa, ở vào ngày thứ 49, sau khi đã tiễn vong linh về đúng cảnh giới mong muốn.
Tuy nhiên, để cho được trọn vẹn với ý nghĩa Siêu Độ, thân nhân để ra một ít thời giờ tu tập, tiếp tục hồi hướng công đức tu của mình cho vong linh.
Đây là một việc làm giúp cho cánh chim Non càng ngày càng cứng cáp, để đến một lúc nào đó, chim đã đủ lông đủ cánh, sẽ tự mình bay thoát trong khoảng trời rộng bao la.
Sau lễ An Táng, vong linh được đưa về nhà để làm lễ siêu độ. Thân nhân phải làm như thế nào cho đúng cách?
Sau khi đã làm lễ An Táng hoặc hỏa thiêu xong, thân nhân nào cầm hình của vong linh thì khấn rằng:
“Vong linh tên đó họ đó, hãy theo về nhà và ở lại trong nhà để cho thân nhân làm lễ siêu độ cho vong linh trong 49 ngày.”
Tức khắc vong linh sẽ đi theo thân nhân về nhà. Nên nhớ: người nào cầm hình của vong linh thì người đó sẽ khấn như vậy.
- Nếu đã lựa chọn được chủ lễ:
- Người này hoặc ở cùng một nhà với vong linh khi còn sống
- Cũng có khi vị này ở khác nhà, nhưng sẵn sàng đến nhà của vong linh để hành lễ siêu độ mỗi ngày
- Khi lễ an táng hoặc hỏa thiêu đã chấm dứt, giao cho chủ lễ cầm hình của vong linh, chủ lễ sẽ khấn vong linh để đi về nhà của vong linh.
- Trước khi làm lễ An Táng, ở tại nhà phải nên lập sẵn bàn thờ của vong linh; sau buổi lễ An Táng về nhà, đặt hình của vong linh lên bàn thờ vong, chủ lễ sẽ cho hương linh nhập vị ngay và thỉnh hai Vị Hộ Pháp để bảo vệ cho vong.
- Nếu vị chủ lễ ở khác nhà với vong linh, nhưng không tiện đến mỗi ngày để hành lễ siêu độ, sau lễ an táng, vị này sẽ cầm hình của vong linh và khấn vong linh đi về nhà của vị chủ lễ. Bàn thờ của vong linh cũng phải sẵn sàng, vị chủ lễ cho vong linh nhập vị ngay, thỉnh hai Vị Hộ Pháp bảo hộ cho vong. Trong buổi lễ siêu độ đầu tiên, tất cả thân nhân của vong linh sẽ cùng hành lễ ở tại nhà của vị chủ lễ.
Máy niệm Phật để trên bàn thờ vong, nên mở suốt ngày 24/24. Đây là cách giúp cho hương linh không quên niệm Phật, càng niệm Phật nhiều, hương linh an trụ trong tiếng niệm Phật, hương linh sẽ càng thấy nhẹ nhàng hơn, đúng với ý nghĩa của việc siêu độ là giúp cho hương linh được nhẹ nhàng. Thân nhân không thể niệm Phật suốt ngày, suốt đêm được, vì vậy nếu để băng niệm Phật cho hương linh nghe thì rất tốt.
Không nên vặn quá lớn, vừa đủ để tạo một khung cảnh thật ấm cúng với nhang khói, với đèn thắp sáng trên bàn thờ. Không nên dùng nhang trầm cúng cho hương linh, nhang trầm chỉ nên dùng để cúng Phật, biểu lộ sự trân trọng của hành giả. Tuy nhiên, điều đó cũng không cần thiết đâu, điều cần yếu chính là sự thành tâm tu tập, cải sửa bản thân mình. Nên dùng loại đèn cầy ở trong ly, sẽ không bị gió lay tắt. Nơi nào không có loại đèn này thì dùng 2 ly cao, cắm 2 đèn cầy thường vào, nên nhớ là chiều cao của đèn cầy phải thấp hơn chiều cao của ly khoảng 2 cm thì đèn cầy mới không bị tắt. Hai ngọn đèn trên bàn thờ vong luôn luôn đốt sáng (24/24) để vong lúc nào cũng có cảm giác được bao bọc trong ánh sáng rực rỡ, tránh cái ánh sáng mờ mờ ảo ảo của Tam Đồ.
Ngày đầu tiên dẫn vong về nhà, phải chuẩn bị đầy đủ hương hoa trà quả ở bàn thờ Phật, hương hoa trà quả ở bàn thờ vong, kèm theo thức ăn cúng cho vong. Tất cả sẵn sàng để người chủ lễ bắt tay vào việc siêu độ cho vong linh ngày thứ 1.
Ngày thân nhân qua đời được kể tính là ngày thứ nhất, từ đó tính tới 49 ngày. Nếu từ ngày mất cho đến ngày an táng là 5 ngày, thì phải hiểu rằng thất thứ 1 chỉ còn lại có 2 ngày, cho nên người chủ lễ sẽ phải sắp xếp để thời gian 44 ngày còn lại, đủ để chuyên chở hết tất cả những gì mà người chủ lễ muốn giảng dạy, dẫn dắt cho vong, nhất là việc giúp cho vong tu tập trong suốt thời gian này.
Có nghĩa là cái thức của hương linh nhận ra được những điều mà người chủ lễ giảng dạy, cắt nghĩa, chỉ dẫn cho hương linh. Cái thức này hoàn toàn trong suốt, không gợn bất kỳ một cái gì để làm chướng ngại.
Rung động có nghĩa là hiểu được, một sự hiểu thấu đáo không có sự che mờ khuất lấp. Vì vậy, nếu hương linh muốn được đi về cõi Phật, hương linh quyết tâm niệm Phật, quyết tâm sám hối ăn năn, hương linh sẽ được về Cõi Phật, dù rằng trước kia khi còn sống, hương linh không đủ tư cách để về Cõi Phật.
Thức ăn đã cúng cho vong rồi, người chủ lễ hay gia đình vẫn có thể dùng được, vì vong chỉ hưởng hơi thôi, chớ không vọc vào ở trong đó để múc, để ăn giống như là người bình thường. Tuy nhiên, nếu kỹ lưỡng thì chỉ cần đậy lại thôi, đừng dọn đi, vì đó là dấu hiệu cho biết rằng buổi lễ đã chấm dứt, người chủ lễ còn phải giảng Pháp cho vong sau đó.
Thông thường, vong thọ hưởng phần vật thực chỉ trong khoảnh khắc vài phút thôi, không cần thời gian lâu giống như người còn sống khi thọ dụng một bữa ăn. Vong chỉ hưởng hơi thôi, do đó chỉ có đồ thanh vong mới hưởng được, còn đồ nặng vong không hưởng được.
Đồ thanh tức là chỉ thuần rau cải thôi, những thức ăn được nấu lên từ động vật, vong không hưởng được đâu.