Nhờ có lời giảng Pháp, Thần Thức của Vong Linh mới dễ dàng nhận ra được điều sai lầm mình đã tạo, mới giải tỏa được điều ẩn ức mình đang mang, mới buông bỏ xuống những điều không tốt, không xứng đáng cho kiếp sống Con Người của mình, và kiếp sống đó không phải chỉ mới bắt đầu từ ở kiếp mới vừa qua, mà đã lần lượt trải qua không biết bao nhiêu Đời, bao nhiêu Kiếp làm NGƯỜI rồi. Cũng nhờ có giảng Pháp mà Tâm - Ý - Tánh sẽ được Thần Thức của Vong Linh chỉnh sửa và chắt chiu trau chuốt, dưới sự hướng dẫn của người Chủ Lễ.
Như vậy hành trang trở lại cõi Ta Bà sẽ được chọn lọc, cân nhắc để không chứa toàn là đất đá, rác rưởi khiến cho Thần Thức phải luôn gồng mình kéo lê suốt cuộc đời kế tiếp của mình nơi cõi Ta Bà.
Một lần nữa, để tiếp tay với Quý Đạo Hữu đảm nhận vai trò Chủ Lễ siêu độ cho Vong Linh, LacPhap.com xin chia sẻ nơi đây 49 bài Giảng Pháp (mỗi ngày một bài Pháp) giúp cho người Chủ Lễ được dễ dàng hơn trong việc siêu độ.
Người Chủ Lễ có thể:
- Hoặc tham khảo trước bài Pháp để gom ý tưởng và tự mình giảng cho Vong Linh nghe
- Hoặc đọc thật chậm rãi bài Pháp cho Vong Linh nghe
Người Chủ Lễ phải hiểu rằng, Nghiệp Chướng gây tạo nên là do từ ở những Tánh Xấu, những Thói Hư. Chính những thói tật xấu xa mới làm cho Tâm bị lung lay, chao động, từ đó mới nảy sinh những Ý Tưởng đen tối, kém thanh cao, nhiều thủ đoạn, cố làm sao để đáp ứng những đòi hỏi phát sinh từ cái Tánh. Đương nhiên là thỏa mãn được cái Tánh, Nghiệp Lực sẽ phát sinh. Tánh xấu càng được nuông chiều, Nghiệp Chướng càng dày đặc, càng quấn chặt người mang những tánh xấu đó.
Do đó, tất cả các bài Pháp nơi đây đều xoay quanh việc sửa Tánh. Một Thần Thức mang quá nhiều Tánh Xấu, nhiều Thói Hư được xem như là một đứa con "HƯ", cần phải được dạy dỗ, trui rèn để có được nhiều Tánh Tốt thế vào, như thế, Tâm mới sáng, Ý mới cao thượng, màn Vô Minh mới có cơ hội mỏng dần.
Thần Thức mang nhiều Tánh Xấu sẽ khiến cho Thân Xác Mới của mình luôn chao đảo, nhiều lụy phiền, thường xuyên đối diện với cảnh huống, với khó khăn.
Thần Thức mang nhiều Tánh Tốt sẽ giúp cho Thân Xác Mới có được một cuộc đời nhẹ nhàng, những ứng phó trở nên dễ dàng hơn, Thân Xác Mới có nhiều cơ hội tiếp cận với các Thiện Tri Thức giúp cho mình nâng cao đời sống tinh thần, để tiến lần đến một đời sống Tâm Linh tốt đẹp và thăng hoa.
Do ảnh hưởng của những tánh xấu từ ở Thần Thức cộng thêm tánh xấu từ ở Thân Xác do ngoại cảnh mang đến, Thân Xác Mới rất dễ dàng gây tạo Nghiệp Chướng cũng như Oan Trái, do đó mà Nghiệp Lực mới lẫn cũ cứ chồng chất lên nhau, không thấy vơi.
Những tánh tốt từ ở Thần Thức cũng ảnh hưởng vào Thân Xác Mới, nhưng lại giúp cho Thân Xác Mới làm được nhiều điều tốt đẹp cho chính bản thân mình cũng như cho những người chung quanh. Việc tạo thêm Nghiệp mới, gây nên lỗi lầm tai hại cũng được tiết giảm rất nhiều.
Cốt tủy của lời Pháp xoay quanh vấn đề SỬA TÁNH. Thần Thức có sửa tánh, có biết hoán chuyển tánh xấu thành tánh tốt thì mới gây ảnh hưởng tốt đẹp trên Thân Xác Mới của mình được.
Hằng triệu, hằng tỷ con Người mang những Thần Thức sở hữu nhiều tánh tốt thì chắc chắn rằng cõi Ta Bà sẽ trở nên một MÁI ẤM đúng nghĩa với 2 chữ TÌNH THƯƠNG.
Ngoài ra, người Chủ Lễ cũng cần phải để ý đến vấn đề sau đây, nếu cho rằng "quan trọng" thì cũng không quá đáng đâu!
Thông thường, người Đời dù có thân thiện với nhau cho đến bao nhiêu, cũng vẫn phải giữ một chút dè dặt trong lời nói, trong hành động hay trong cử chỉ của mình để tránh làm mất lòng nhau. Tất cả cũng chỉ vì 2 chữ TỰ ÁI hoặc CÁI NGÃ (cái Tôi).
Một lời khuyên nhủ, khuyên răn hay chỉ trích cũng không thể quá thật lòng, quá thẳng thắn vì sợ làm đứt sợi dây thân ái.
Điều này sẽ trái ngược hoàn toàn khi người Chủ Lễ đảm nhận vai trò siêu độ cho Vong Linh.
Vong Linh không còn Thân Xác nữa, giờ chỉ là một Thần Thức nhẹ như bông mang Tâm-Ý-Tánh cùng với cái túi A Lại Da Thức chứa đầy Nghiệp lớn lẫn Nghiệp nhỏ của mình.
Thần Thức nhận ra được dễ dàng điều đúng và điều sai qua sự rung động. Nếu một lời khuyên bảo, chỉ dạy mang tính chất chân thật, hết lòng, không ẩn ý, Thần Thức sẽ rung động chấp nhận. Tự ái hay cái Ngã, cái Chấp không có hiện diện nơi đây. Chỉ khi nào người Chủ Lễ tỏ ra xấc xược, có lời lẽ khiếm nhã đối với Vong Linh, khi đó Vong Linh sẽ trở nên SÂN HẬN, khiến cho cái túi Nghiệp nặng thêm lên một chút.
Nói chuyện với người Đời còn để chút e dè, cả nể, đôi khi trình bày quanh co, hơi mập mờ để cho tình huống bớt căng thẳng.
Nói chuyện với Vong Linh, bắt buộc phải chân thật, phải rõ ràng, phải chậm rãi, không dài dòng, đi thẳng vào vấn đề.
Nếu người mình đang siêu độ là Ông Bà hay Cha Mẹ hoặc bất cứ một người Thân nào, chỉ cần giữ sự lễ phép trong cách xưng hô, nhưng giảng dạy với một sự tha thiết chân thật, cốt để cho Vong Linh biết rằng mình rất mong mỏi Vong Linh thấu hiểu lời Pháp để chỉnh sửa những sai lầm mà Vong Linh đã gây tạo ra.
Trên phương diện Đời thì Vong Linh là Tình Thân hay Ruột Thịt của mình, nhưng, sau 49 ngày siêu độ, Vong Linh đó sẽ khoác lên chiếc áo Mới rồi, và sẽ trở thành Thâm Tình của một Dòng Họ Mới, một Gia Đình Mới với Cha Mẹ Mới, với Anh Chị Em ruột thịt Mới.
Do đó, người Chủ Lễ không phải chỉ là siêu độ cho Vong Linh của Thâm Tình Ruột Thịt của mình mà là siêu độ cho một Thần Thức sắp sửa bước vào một cuộc Đời Mới trong Kiếp kế tiếp.
Chính người Chủ Lễ giúp cho Vong Linh đó sẽ có được một cuộc Đời tốt đẹp qua việc chỉnh sửa Tâm - Ý - Tánh của Thần Thức của Vong Linh trong suốt 49 ngày siêu độ.
Sau đây là những bài Pháp giảng cho Vong Linh trong suốt 49 ngày, mỗi ngày một bài Pháp.
TUẦN THẤT THỨ NHẤT:
Ngày thứ nhất:
Hởi Vong Linh.... (Tên Họ - Pháp Danh nếu có), mệnh số của Vong Linh đã chấm dứt rồi, hiện tại Vong Linh đã xa lìa Trần Thế, hoàn toàn không còn mối liên quan nào với Cõi Dương nữa. Gia đình, bà con dòng họ, anh chị em, bạn bè thân thích, kể cả tiền tài sản nghiệp, quyền uy danh vọng v...v tất cả đều tan biến sau cái chết. Vong Linh là NGƯỜI đã CHẾT và hiện tại đang có mặt ở cõi Âm.
Nếu Vong Linh muốn sớm trở lại Dương Trần, tha thiết muốn trở lại cuộc sống làm NGƯỜI thì hãy tận tâm tận lực tu tập, biết ăn năn sám hối, biết thành tâm hối lỗi về tất cả những điều sai trái mà mình đã gây tạo nên từ ở những kiếp sống trong quá khứ xa xôi, và ngay cả ở kiếp mới vừa qua. Tất cả các Đấng Từ Bi đã dành cho Vong Linh một ĐẶC ÂN 49 NGÀY để tu chỉnh lại Tâm - Ý - Tánh của mình.
Thời gian qua, thử hỏi với thân xác NGƯỜI trên Dương Thế, Vong Linh đã có biết bao nhiêu lần làm những điều trái đạo với người Đồng Loại của mình, cũng như riêng với chính bản thân mình? Có khi Vong Linh đã được "hồi đáp" về những hành động sai trái đó, đánh người ta thì người ta đánh lại, hại người thì người hại lại, nhưng, nếu có những người đã nhận chịu những cảnh huống, những thảm sầu do Vong Linh gieo rắc cho họ, và vì một lý do nào đó khiến cho họ không thể chống trả lại được, hoặc là họ đã vĩnh viễn lìa khỏi cõi Đời rồi, như vậy có nghĩa là, theo đúng luật Nhân Quả, Vong Linh sẽ phải gánh chịu một sự triển khai của Nghiệp Lực, nghiệp lực từ trong quá khứ xa xưa và luôn cả nghiệp lực ở kiếp mới vừa qua.
Chắc chắn rằng, đã có Vay thì có Trả, có tạo Nghiệp thì đương nhiên phải trả Nghiệp. Nghiệp được gây tạo, không phải chỉ ở một Đời mà nhiều Đời. Mục đích của Chúng Sanh đến cõi Ta Bà là để đền trả lại những món nợ chưa kịp thanh toán sòng phẳng với nhau trước lúc lìa Đời, tuy nhiên, do mang trong người quá nhiều Tánh xấu nên đã không ngần ngại vung tay mạnh bạo với Đồng Loại của mình. Do đó mà nghiệp cũ thanh toán chưa xong, nghiệp mới lại nối đuôi nhau, có khi còn nhiều hơn nghiệp cũ nữa. Đời người ngắn ngủi, không đủ dài và đủ lâu để chờ đợi Người thiếu Thiện Chí trả nghiệp, vì vậy mà nghiệp cũ và nghiệp mới cứ chất chồng.
Nghiệp không trả thì nghiệp vẫn còn đó, không biến mất, nghiệp tích tụ để trở thành núi nghiệp, kiếp Con Người khi đó sẽ không khác một con lừa, con ngựa, lưng lúc nào cũng còng xuống, bước chân lúc nào cũng nặng nề vì cái gánh nặng Nghiệp Lực trên lưng, làm sao tìm được sự thoải mái, sự nhẹ nhàng trong cuộc sống con người? Trông cậy vào một Đấng Cứu Rỗi nào đó, dang tay ra để nhấc giùm mình cái gánh nặng khỏi lưng ư? Điều đó sẽ chẳng bao giờ có được, vì không có bất cứ Đấng Từ Bi nào vấy vào Nghiệp Lực của Chúng Sanh đâu!!
Đã gieo Nhân không lành thì đương nhiên sẽ gặt Quả trái không hiền. Ngày còn sống đã không ý thức được cái nguyên tắc căn bản của Luật Vũ Trụ, đó chính là LUẬT NHÂN QUẢ. Có tôn trọng cái nguyên tắc này thì Chúng Sanh của cõi Ta Bà mới tuân thủ được Sự Cân Bằng của Thiện và Ác. Một Chúng Sanh làm nhiều điều Ác trong cuộc đời sẽ không thể nào cân bằng được cái kết quả đến với mình trong cuộc sống. Những điều mình nhận được luôn dính chặt với những điều mình đã làm. Không bao giờ cái kết quả của một hành động Ác lại là một Phước Lành đến với mình. Cũng như thế, tất cả những hành động Thiện sẽ tạo nên ánh hào quang che chở cho người gặp nạn, giúp cho họ vượt qua những khó khăn, những chông gai, những trở ngại trên từng bước đi của cuộc đời của họ. Nếu cán cân Thiện - Ác của một người chênh lệch nhau quá nhiều về phía Ác, thì chắc chắn rằng sẽ có sự đổ vỡ lớn lao trong cuộc đời của người đó, ngay khi họ còn sống hay cũng có thể ngay lúc họ bước vào thế giới của cõi Âm.
49 ngày Đặc Ân là thời gian đủ để giúp cho một Vong Linh nhận thức được rằng mình đã liên tục sai lầm. Khi không còn bị bao bọc bởi một Thân Xác chi phối quá nhiều lên phần Tâm - Ý của mình, Vong Linh tức khắc sẽ thấu đáo được tại sao mình bắt buộc phải ăn năn sám hối?
Các Đấng Từ Bi cứu rỗi Thần Thức của một Vong Linh chính là giúp cho Vong Linh thấu hiểu được những điều sai trái đã gây tạo từ nhiều đời nhiều kiếp qua chính Thân Xác của Vong Linh. Một sự chân thành, một lòng tha thiết ăn năn hối lỗi sẽ khiến cho Tâm - Ý bừng sáng và làm mờ dần đi những hình ảnh Nghiệp Chướng trong tâm thức của Thần Thức của Vong Linh.
Càng thiết tha sám hối, Thần Thức của Vong Linh càng nhẹ lần, không còn nặng trịch như trước nữa, điều này nói lên rằng Thần Thức đã chuẩn bị cho mình một gói hành trang không chứa toàn đá sỏi, mà ngược lại, đựng toàn là gấm vóc, trước khi bước trở lại cuộc đời nơi cõi Ta Bà.
Giờ thì Vong Linh đã thấu hiểu vì sao Vong Linh phải Sám Hối? Không phải sám hối 1 ngày hay 2 ngày, hay 3 ngày, mà bắt buộc phải sám hối ròng rã trong 49 ngày liên tục, trong suốt thời gian đặc ân mà các Đấng Từ Bi đã dành cho Vong Linh, chỉ vì thương xót Vong Linh, muốn cứu giúp cho Vong Linh thoát khỏi sự kềm kẹp đến nghẹt thở, không lối thoát của cái NÚI NGHIỆP LỰC của mỗi Vong Linh.
Do đó, Vong Linh phải đem sự chân thành để Sám Hối, để Ăn Năn về tất cả những nghiệp chướng do mình đã gây tạo ra. Có tỏ rõ cái thiện chí hối cải của mình thì Tâm mình mới sáng lên, Ý Tưởng của mình mới thơ thới, Thần Thức của Vong Linh mới nhẹ nhàng cất bước được trên con đường tiến về nơi an trụ ở một cuộc đời mới, ít sóng gió, Lành nhiều, Rủi ít.
Vong Linh hãy rán tư duy và thâm nhập những điều đã giảng dạy, hãy khắc ghi trong tâm thức lời sám hối, ăn năn của mình. Hẹn gặp lại Vong Linh vào ngày mai.
Ngày thứ 2:
Qua bài giảng đầu tiên, Vong Linh đã thấu hiểu rằng, chính nghiệp lực đã dẫn đường để đưa Thần Thức của Vong Linh trở lại cõi Ta Bà, nhận chịu sự đền trả cho tương xứng với Luật Cân Bằng về tất cả những đau thương, những xót xa, những thống khổ, những mất mát, những hủy hoại, những chia lìa....mà Thần Thức khi còn trong Thân Xác NGƯỜI đã gây tạo nên, không một chút xót thương, không một chút nương tay.
Song song với việc Trả Nghiệp là việc liên tục Tạo Nghiệp. Thử hỏi rằng: động cơ nào đã khiến cho một Con Người luôn phát lộ sự hung hăng, thích làm đau kẻ khác, thích cười đùa trên sự đau khổ của kẻ khác? Đếm xác chết để đo lường Chiến Thắng, đong Máu Xương để tỏ rạng Kẻ Hùng Anh?
Câu trả lời sẽ là... CÁI TÁNH !!
Tánh là một phần trong bộ 3 Tâm - Ý - Tánh, giúp cho Thần Thức vận hành trong một Thân Xác Người. Tâm có trong sáng, Ý có cao thượng, Tánh có TỐT thì một con Người mới có thể tìm được sự bình an cho đời sống tâm linh của mình.
Cho dù họ đang phải trải qua những ngày tháng trả Nghiệp, trả những món nợ mà họ đã vô tình hay cố ý gây tạo nên từ kiếp nào đó trong quá khứ, nhưng, ngày hôm nay, ở hiện kiếp, với cái Tâm luôn rung động trước những nỗi đau thương hay mất mát của kẻ khác, với cái Ý luôn trong sáng, dung chứa đầy những tư tưởng hướng thượng, thanh cao, và nhất là họ sở hữu thật nhiều Thói quen cùng Tánh Tốt, chắc chắn rằng họ sẽ khó lòng tạo nên nhiều nghiệp mới.
Dù rằng bộ 3 Tâm-Ý-Tánh này bổ túc cho nhau, nhưng cái Tánh vẫn chiếm thế thượng phong. Tánh quá hung tợn, quá dữ dằn, quá tham lam sẽ dễ dàng gây tạo điều nông nổi mà tự Tâm và Ý cũng khó kềm chế cái Tánh được.
Ba cái tánh góp phần không nhỏ trong việc lôi cuốn một Chúng Sanh cứ mãi đắm chìm trong Biển Trầm Luân, đó chính là Tánh Tham, Tánh Sân và Tánh Si.
Tánh Tham
Tánh Tham do từ ở cái gì? Do từ ở cái MUỐN, muốn quá nhiều, muốn Ăn, muốn Uống, muốn Đồ Vật, muốn Người, muốn Hạnh Phúc, muốn Sự Nghiệp, muốn Công Danh...Tất cả những cái Muốn đó nếu không được đánh đổi bằng cái Công Sức tương đương của chính người đó thì nó sẽ thôi thúc để hiện thực hóa cái Muốn bằng những hành động trái đạo.
Một đồ vật của Người khiến cho mình cứ mãi trầm trồ, mơ tưởng và ao ước, đến một lúc nào đó, cái Muốn đã thực sự dâng cao và khó kềm lòng thì việc Gian Dối hay Lường Gạt, thậm chí Cướp Giựt để có thể sở hữu được đồ vật đó sẽ được thực hiện một cách không đắn đo.
Người ta có tài sản mà mình thì trắng tay, Tâm đã mống lên sự chiếm đoạt, Ý tức khắc lóe lên những toan tính để thảo kế hoạch hành động nhằm chiếm hữu tài sản mà mình mong muốn.
Những hành động gian manh, xảo trá, lọc lừa, dối gian, thậm chí hại chết mạng người để giành giựt người đàn ông hay người đàn bà mà mình mong muốn được sống chung, cũng là một cách triển khai cái Muốn của một người trước Hạnh Phúc của kẻ khác.
Trên con đường tiến đến mức Vinh Quang của Công Danh Sự Nghiệp, Người Đời đã không ngại Chơi Xấu nhau, Chèn Ép nhau, Lọc Lừa nhau, Vu Khống cho nhau, Hãm Hại nhau, tất cả cũng chỉ là đạt cho được cái Địa Vị mà mình mong Muốn.
Tham Ăn, ăn nhiều quá sẽ bị thiệt thân, đem đến Bệnh Hoạn. Đôi khi có những thức ăn, nhất là những thức ăn từ các động vật hoang dã tạo ra những thứ bệnh mà bác sĩ cũng bó tay không biết cách chữa, y học cũng chịu phép vì không có thuốc chữa trị.
Tham Uống, uống nhiều rượu quá sẽ say sưa làm mất đi tư cách con người. Rượu vào thì lời ra, khiến cho có gây gổ, chưởi mắng nhau, đập lộn nhau, đôi khi đưa đến chuyện đáng tiếc, gây nên thương tích hay làm thiệt mạng người. Người say sưa không làm chủ được giác quan của mình, đánh mất sự thăng bằng của Trí Tuệ cho nên không điều khiển được mọi hành động của mình, rất dễ dàng gây ra tai nạn chết người nếu lái xe trong lúc quá say sưa. Rượu còn làm cho con người đánh mất Lương Tri, sẵn sàng làm bất cứ điều gì để thỏa mãn cái Muốn của mình trong cơn say sưa, đến khi tỉnh rượu thì sự thể đã muộn màng rồi.
Người Tham Tiền thì không từ nan để làm bất cứ điều gì miễn là tạo ra Tiền, có được Tiền. Do đó họ rất dễ dàng bán đứng kẻ khác, luôn cả việc bán Quốc Gia, Dân Tộc, Xứ Sở của mình, họ cũng chẳng khước từ.
Tánh Sân
Tự Ái của một người chính là đầu mối của Lòng Sân Hận. Tự Ái càng lên cao, Tâm sẽ càng vọng động, Ý xấu sẽ khởi sinh, Tánh Xấu sẽ được dịp bùng lên, và đương nhiên là Nghiệp Lực được tạo thành.
Ngọn lửa Sân tai hại vô cùng, nó thiêu đốt không biết bao nhiêu Chúng Sanh từ vô thỉ kiếp, cứ mãi trôi lăn, không chấm dứt được.
Biết bao nhiêu chuyện đáng tiếc xảy ra cũng chỉ vì quá Sân Hận; cơn Giận bốc lên, khó lòng kềm chế, rất dễ dàng gây nên thương tích cho kẻ khác hay xúc phạm đến Danh Dự của ai đó. Đương nhiên là tự tay mình đã đóng Vòng Nghiệp lực, nhưng đối với Công Lý của Người Đời thì mình khó lòng tránh khỏi Hình Phạt. Giữa mọi người trong Gia Đình, trong Bà Con Thân Tộc, nếu không kiểm soát cái Sân của mình qua cái KHẨU, sẽ không tránh khỏi sự cãi vã, đôi khi đưa đến việc chưởi bới nhau, nhục mạ nhau, gây nên cảnh "Cốt Nhục Tương Tàn".
Ngọn lửa Sân còn tác hại, làm tiêu đi Trật Tự Xã Hội do hành động của những kẻ vì quá Sân cho nên thiếu suy nghĩ, làm chuyện điên rồ.
Nếu ngọn lửa Sân xuất phát từ một kẻ có Uy Quyền, nhiều Tham Vọng và Hiếu Chiến, thì việc tiêu hủy một Quốc Gia hay tàn hại một Chủng Tộc là điều vẫn rất có thể xảy ra.
Tánh Si
SI luôn luôn đi kèm với MÊ. Vì Mê cho nên mù quáng, vì Mê cho nên không còn nhìn thấy, không còn phân biệt được Phải Trái, không còn nghe được những gì trung thực, cho nên hoàn toàn mù mịt, tối tăm, để rồi rơi vào hố sâu vực thẳm.
Kẻ Mê Tiền thì sẽ rơi vào hố sâu vực thẳm của Đồng Tiền.
Kẻ Mê Sắc Dục sẽ rơi vào hố sâu vực thẳm của Sắc Dục.
Kẻ Mê Quyền Tước sẽ rơi vào hố sâu vực thẳm của Quyền Tước.
Trên Cõi Đời này, có bao nhiêu cái MÊ là sẽ có bao nhiêu loại SI. Càng Mê nhiều thì càng Si nhiều, càng Đắm nhiều, càng đánh mất Lương Tri, mặc tình cho Nghiệp lực dấy lên.
Một khi đã Mê rồi thì lửa Sân, lửa Hận tha hồ bốc lên, không còn phân biệt đúng sai, phải trái nữa.
Đã Mê Cờ Bạc rồi thì không còn thấy gì nữa cả ngoài các CON BÀI. Vợ Con cũng không còn, Sản Nghiệp cũng tiêu tan để thỏa niềm Đam Mê của kẻ mê Bài Bạc. Bất cứ lời can ngăn, cản trở nào cũng sẽ khơi dậy lửa Sân Hận trong lòng của kẻ đang Mê, gây nên sự phiền lụy, đớn đau cho người thực tâm khuyên bảo.
Một khi đã Mê cái gì rồi thì bỗng nhiên người đó trở thành Nô Lệ của cái vật mà người đó đang Mê, họ sẽ không thể nào sống được nếu thiếu cái vật đó. Lỡ nghiện Thuốc Phiện rồi thì không có nó, người nghiện sẽ không sống được, và họ sẵn sàng hy sinh tánh mạng để đổi lấy một vài ngao thuốc phiện.
Điều này nói lên rất rõ ràng là, từ cái Mê đã thúc đẩy để phát sinh ra cái SI. Chính cái Mê mới phá nát Tâm Thức của một người, khiến cho Căn Thức không còn hoạt động nữa, vì vậy mà người đắm chìm trong cái Mê sẽ không phân biệt được Chánh, Tà, Phải, Trái, Đúng, Sai, và rất dễ dàng tiến vào Cảnh Giới Súc Sanh sau khi bỏ báu thân.
Câu hỏi được nêu lên là: tại sao một người lại quá tham, quá sân hay quá si?
Tất cả cũng chỉ là "phụng sự" cho cái MUỐN.
Muốn có Tiền đầy tủ, muốn có Nhà cao cửa rộng, muốn có Xe đẹp đắt tiền khiến mọi người phải luôn miệng trầm trồ, muốn có Công Danh Sự Nghiệp với uy quyền cao tột khiến người khâm phục và nể sợ, muốn có Vợ đẹp Con ngoan hay Chồng quyền uy cao tột, muốn một cuộc sống giàu sang với kẻ hầu người hạ, muốn lời của mình là Lịnh, muốn hành động của mình là Kim chỉ nam cho tất cả mọi người....Muốn nhiều quá, nhưng, có đôi khi không thỏa được những điều mình muốn, bị người khác nhanh tay hay tài giỏi hơn cướp đoạt, do đó đâm ra Sân Hận, và khi sân hận đến tột cùng thì bất chấp thủ đoạn, bất chấp lời khuyên bảo, cứ như con thiêu thân lao đầu vào lửa đỏ, và mê muội với cái muốn của mình.
Ngày giờ này, Vong Linh hiện diện nơi đây, thân xác đã rủ sạch ở một nơi nào đó, Vong Linh có mang được trong người một tấm giấy bạc nào hay không? Vong Linh lang thang vất vưởng tới đây, hay là ngồi chễm chệ trên một chiếc xe đẹp có tài xế lái? Vong Linh có còn kẻ hầu người hạ lo cho mình từng bữa ăn không? Hay chỉ là một Vong Linh đói lạnh, yếu đuối và run rẩy? Vong Linh có còn vợ con bên cạnh để ngày đêm tỉ tê an ủi, hoặc vã một người chồng quyền uy luôn bảo hộ, chở che cho Vong Linh?
Tất cả đã lùi vào dĩ vãng, đã trở thành quá khứ ngay khi Thần Thức của Vong Linh rời xa Thân Xác. Tất cả những gì thuộc về Vật Chất đều không thể nào tồn tại ở cõi Âm. Chính cái Thân Xác của Vong Linh, ngày giờ này cũng trở thành cát bụi rồi thì nói chi đến những vật chất ở chung quanh. Ngày còn Sống, chỉ vì để phụng sự cho cái thân xác đó mà Vong Linh đã không chùng tay trước bất cứ hành động sai trái nào, đã dửng dưng trước bao lời khuyên can về những hành vi bất chính của mình.
Càng thỏa mãn cái đời sống vật chất, càng phụng sự cho thân xác nhiều chừng nào, sẽ càng gây tạo nhiều Nghiệp Chướng, và chính những nghiệp chướng đó đã làm nặng nề bước chân của Vong Linh ngày hôm nay. Khi Vong Linh còn sống, Vong Linh không nhận ra nó nặng nề, vì sao? Vì Vong Linh đi bằng xe hơi! Còn bây giờ chỉ là một cái Bóng nhẹ như sương, như khói, Vong Linh mới thật sự cảm thấy bước chân mình nặng nề vì những cái vướng mắc đó.
Ngày giờ này, Vong Linh bắt buộc phải buông xả hết tất cả những nuối tiếc của mình vì nó đã hoàn toàn trở thành KHÔNG, không có cái gì để nắm giữ, mà cũng không có cái gì để mang theo. Còn luyến tiếc, còn chấp chặt, là còn vướng mắc. Như vậy, cái cơ hội để trở lại cuộc đời, để trở thành một con người Mới, hoàn toàn sẽ khó lòng thành tựu được.
Ngay cả cha mẹ hay vợ chồng, con cái, anh chị em....Họ đến với Vong Linh cũng là từ ở những Nghiệp Lực trong quá khứ. Họ đến để đòi lại sự công bằng mà Vong Linh đã tước đi của họ ở một kiếp nào đó thuộc về quá khứ, cũng có thể họ đến để đền trả lại cho Vong Linh một hay nhiều món nợ trong quá khứ mà họ đã chưa kịp thanh toán trước khi họ xa lìa Nhân Thế.
Ngày giờ này Nghiệp Lực đã giải quyết xong rồi, đường ai nấy đi, kẻ Dương Trần, người Âm Cảnh, tất cả cũng chỉ còn là Kỷ Niệm, là những dấu vết khắc ghi sự hiện diện của Vong Linh nơi cõi Ta Bà trong một khoảng thời gian nào đó.
Một trang giấy đã được lật qua. Trang giấy trắng kế tiếp đang chờ đợi để ghi khắc lại cuộc đời MỚI của Vong Linh nơi cõi Ta Bà với tất cả những nghiệp lực mới cũng như với những tương quan của các nghiệp lực đó.
Tất cả các Đấng Từ Bi đã cho Vong Linh thời gian đặc ân 49 ngày để tu tập, vì muốn cho Vong Linh có thể tự mình thắp lên ngọn đèn Trí Huệ để đưa đường dẫn lối cho Vong Linh đến nơi an trụ. Muốn có được ngọn đèn đó, Vong Linh bắt buộc phải tu tập, phải hành trì việc Sám Hối để làm cho những vướng mắc đang trĩu nặng trên người của Vong Linh tan thành tro bụi, giúp cho Vong Linh được nhẹ nhàng cất bước.
Vong Linh phải Trì Chú để giúp cho ngọn đèn trí huệ được sáng lên.
Vong Linh cũng phải Niệm Phật để nương vào Sức của Phật, vào Ánh Hào Quang của Phật, giúp cho ánh sáng Trí Huệ được tỏ rõ thêm lên.
Nói tóm lại, các Đấng Từ Bi đã giúp cho Vong Linh có đầy đủ những Phương Tiện để đến nơi an trụ, với một điều kiện duy nhất là, Vong Linh phải nhận chân ra được những tảng đá nặng mình đang mang, và tình nguyện vứt bỏ nó xuống để được nhẹ nhàng cất bước. Nếu Vong Linh cưỡng cầu không buông bỏ thì mãi mãi không bao giờ Vong Linh tìm được nơi an trụ, và cơ hội của thời gian 49 ngày Đặc Ân cũng sẽ không bao giờ trở lại với Vong Linh lần thứ 2.
Vong Linh cũng đã hiểu rất là rõ ràng, chính những TÁNH XẤU là động lực thúc đẩy Vong Linh khi còn sống, làm những điều trái Đạo, gây tạo nhiều nghiệp chướng với người Đồng Loại của mình. Tánh xấu càng nhiều, nghiệp lực càng được tạo nên, nợ nần trả không hết ở hiện kiếp thì cũng sẽ phải thanh toán cho xong ở kiếp vị lai. Rời khỏi cõi Ta Bà mà cưu mang trên người quá nhiều nghiệp chướng thì chẳng khác nào đeo đá nặng trên vai, cất bước sao cho nỗi!!
Tham - Sân - Si dễ dàng đưa Vong Linh đến chốn đọa đày. Giảm được bớt tánh Tham, con người sẽ biết dừng lại ở cái mức giới hạn của chữ MUỐN, sẽ có được cảm nhận tốt đẹp về việc Biết Chia Sẻ, Biết Tương Trợ, Biết Giúp Đỡ những người bất hạnh hơn mình.
Sân Hận làm cho con người dễ đánh mất lương tri; khi Tự Ái lên quá cao, sự giận dữ dâng lên đến tột cùng, lý trí mất sự kiểm soát, thì việc hại người rất dễ dàng xảy ra.
Sự Si Mê hay chìm đắm trong bất cứ việc gì cũng đều dễ dàng đưa đến hành động sai lầm. Bỏ được Tánh Si Mê, sẽ SỐNG hiểu biết hơn, sống với sự sáng suốt để nhận định và quan sát mọi việc, giúp cho mọi hành động của mình không bị sai lạc và mang đến nhiều lợi ích.
Nói tóm lại, khi một Tánh Xấu được TRIỆT TIÊU, sẽ có một hay nhiều Tánh TỐT thay thế vào. Lần lượt nhiều Tánh Xấu được triệt tiêu thì số lượng Tánh Tốt cũng sẽ được gia tăng lên.
Vong Linh có triệt tiêu được những Tánh Xấu ngày hôm nay và đồng thời "khắc cốt ghi tâm" tất cả những Tánh Tốt thì, khi trở lại kiếp Người, nhờ những Tánh Tốt đã được tích tụ trong Tâm Thức, mà Thần Thức của Vong Linh trong Thân Xác Mới sẽ hướng dẫn để cho Thân Xác có được những hành vi Hướng Thiện, cũng như tạo cơ hội để cho Thân Xác gặp được Thiện Tri Thức hướng dẫn cho tu tập, giúp cho Thần Thức trong Thân Xác đó càng ngày càng thăng hoa.
Tánh Tốt là những Hạt Nhân Lành mà Vong Linh gieo trồng trên mảnh đất Tâm, ngày mà Vong Linh trở lại cõi Ta Bà, những hạt nhân lành đó đủ thời gian để đơm bông kết trái, giúp cho Thân Xác Mới của Vong Linh luôn có được những quả trái ngọt ngào, thơm ngon.
Vong Linh hãy thành tâm nói lời phát nguyện như sau đây:
Vong Linh (Tên họ... Pháp Danh...) xin phát nguyện trước các Đấng Từ Bi, con sẽ hoàn toàn triệt tiêu những Tánh Xấu Tham - Sân - Si và khắc cốt ghi tâm những Tánh Tốt sau đây: Tánh biết chia sẻ - Tánh tương trợ - Tánh giúp đỡ - Tánh biết lắng nghe - Không đặt Tự Ái lên cao - Luôn sáng suốt để nhận định và hành xử mọi việc trong chiều hướng tốt đẹp và lợi ích.
Buổi giảng Pháp đến đây là chấm dứt. Vong Linh cố gắng luôn thành tâm Sám Hối - Trì Chú và Niệm Phật. Nhớ tâm niệm với lòng là buông bỏ xuống những tánh xấu và luôn khắc cốt ghi tâm những tánh tốt.
Ngày thứ 3:
Bài Pháp hôm nay nhắc nhở cho Vong Linh nhớ rằng, khi Vong Linh còn thân xác Người, cái thân xác đó lúc nào cũng lao chao, luôn khuấy động, không yên ổn. Thân xác luôn tìm cách làm cho mình đẹp hơn, bắt mắt nhìn của thiên hạ hơn, tự điểm tô mình bằng tiền tài, danh vọng, quyền uy, sắc đẹp, tài sản, hạnh phúc...Có thể nói, suốt cả cuộc đời cho đến khi xuôi tay nhắm mắt, con người cũng chỉ loanh quanh với những thứ đó mà thôi, họa hoằn lắm mới có vài người chối từ Vật Chất, trở về với cái Nguyên Thủy của thực chất con người là sống đúng với cái Tâm Lành, cái Ý Lành và với những cái Tánh hoàn toàn hướng Thiện.
Ngày giờ này, sự sống không còn nữa, Thân Xác cũng bị chôn, bị thiêu hay bị dùi vập ở một nơi nào đó, đâu có còn thân xác để điểm tô, đâu có còn thân xác để phụng sự, đâu có còn thân xác để gây tạo những điều trái đạo. Còn thân xác là còn Lục Dục Thất Tình. Hỷ - Nộ - Ái - Ố - Ai - Bi - Dục Lạc chính là 7 tảng đá nặng, rất nặng, trì níu Con Người đắm chìm trong Biển Trầm Luân.
Thoắt một cái búng tay, Sự Sống không còn, tiền tài, danh vọng, sự nghiệp, tài sản, hạnh phúc...tất cả bỗng chốc đã trở thành Vô Thường, không còn hiện hữu nữa, không còn trong vòng tay cầm nắm nữa.
Nhận chân ra được ngày mình còn sống, tất cả mọi vật quay chung quanh mình đều là vô thường, tức khắc Vong Linh sẽ hiểu được ngay rằng, tại sao Vong Linh bắt buộc phải chỉnh sửa Tâm - Ý - Tánh của mình?
Chỉ vì để phụng sự cho Thân Xác mà con người đã tỏ ra lơ là đến bỏ mặc việc kềm hãm sự "quá đà" của cái Tâm, cái Ý, và nhất là không tự chủ được việc kiểm soát những thói hư tánh xấu của mình.
Sau đây là 5 tánh xấu căn bản mà Chúng Sanh ở trong bất cứ xã hội nào, thuộc bất kỳ một Quốc Gia nào cũng đều đối diện với chúng:
Tánh sát sanh
Mạng Người rất là quý, phải hội đủ những Nhân Duyên mới sinh ra được Kiếp Người. Con Người có cái vui chơi của cuộc sống Con Người, Sinh Vật vẫn ham muốn một sự Sống và nó cũng có cái vui chơi của cuộc sống Con Vật. Con Người vẫn luôn tìm đủ mọi cách để bảo vệ sanh mạng của mình, loài vật cũng thế, tuy rằng không có Tri Giác, Con Vật vẫn là loài ham sống sợ chết.
Nếu Chúng Sanh xem thường sanh mạng của nhau, Chúng Sanh tức khắc bị chi phối bởi Luật Nhân Quả. Trong mỗi con vật đều dung chứa Thần Thức bị đọa; giết hại một sinh vật tức là tạo Nghiệp Chướng với Thần Thức ở trong sinh vật đó, mà đã là tạo Nghiệp thì phải trả Nghiệp, tức là phải đón nhận Quả Trái của cái Nhân Sát Sanh đã gieo trồng từ trước. Chắc chắn rằng Quả Trái nhận được đó sẽ không ngon, không ngọt, mà đó là Quả đắng, Quả chua, Quả dị dạng.
Kẻ nhúng tay vào việc sát sanh cả Người lẫn Vật sẽ khó tránh khỏi những cảnh huống đau thương đến với mình, mà điển hình nhất chính là những bệnh nan y khó tìm Thầy, tìm Thuốc.
Tánh trộm cắp
Trộm cắp là hành vi triển khai cái Tánh Tham Lam của một người. Đối với họ, cái gì họ cũng muốn, cái gì họ cũng thích chiếm đoạt sở hữu. Họ hành động không cần suy nghĩ, không cần đắn đo và cũng không từ nan bất cứ thủ đoạn nào để cướp giựt, để trộm cắp, luôn cả việc sát hại lẫn nhau chỉ để tranh giành một món đồ.
Do đó mà Tánh Sát Sanh và Tánh Trộm Cắp dính chặt vào nhau, cùng tạo nên vô số Nghiệp Chướng.
Tánh nói dối
Nói dối là hành động man trá, thiếu chân thật, luôn che đậy và dấu diếm sự thật. Đã mang cái Tánh Sát Sanh, lại thêm cái Tánh Trộm Cắp, do đó bắt buộc phải Dối Trá để qua mặt lẫn nhau, hay qua mặt người chung quanh.
Trong khi Tánh Sát Sanh và Tánh Trộm Cắp có tính cách hiển lộ thì Tánh Nói Dối lại ẩn tàng bên trong. Sự dối trá được sắp xếp có lớp lang, mạch lạc để làm mờ mắt người chung quanh, để gieo vào đầu óc mọi người rằng, mình là người chân thật, ăn ngay nói thẳng khiến cho không có sự đề phòng, giúp cho kẻ dối trá được dễ dàng thao túng và sắp xếp kế hoạch để hại Người, để lừa đảo Người. Tánh Nói Dối rất là tai hại vì kẻ nói dối lợi dụng sự dễ tin của người khác để làm muôn điều xằng bậy, cướp giựt tiền tài, sản nghiệp và luôn cả hạnh phúc, thanh danh của Người đã quá tin tưởng vào miệng lưỡi của Kẻ Nói Dối.
Tánh uống rượu
Đây là một hình thái của cái Tánh Tham, Tham Uống!
Khi đã say sưa rồi thì không còn điều khiển được Tâm Trí của mình nữa, không kiểm soát được lời nói cũng như hành động của mình, vì vậy mà thả lỏng những Thói Tật Xấu Xa của mình. Rượu vào thì khiến người ta dễ dàng đánh mất Lương Tri, triệt hạ tư cách của mình, khó lòng kềm hãm, đắn đo trong cử chỉ, trong hành động và tỏ lộ sự sỗ sàng trong lời nói.
Có cái gì mà không dám làm khi "hơi men" đã bốc lên? Do đó có biết bao nhiêu chuyện sai trái kể cả việc Sát Sanh, hại Người, hại Vật đã xảy ra trong cơn say sưa của một người.
Tánh tà dâm
Tà Dâm là một Tánh Xấu bắt nguồn từ Tánh Tham và từ ở sự Si Mê của một người. Tà Dâm dính chặt với việc uống rượu. Rượu vào sẽ khích động cái tính chất "thật" của bản năng của một người. Khi đó, tất cả những gì Không Tốt Đẹp của Bản Năng sẽ được phơi bày.
Mang cái Tánh Tà Dâm trong người, đầu óc lúc nào cũng đầy hình ảnh gợi lên sự Dâm Dục. Nói về phương diện Thể Xác, chắc chắn rằng cái Thân Thể đó không cường tráng nổi vì sớm muộn gì cũng sẽ mang nhiều chứng bệnh do ở sự Dâm Dục đưa đến.
Tinh Thần thì đương nhiên bại hoại vì Tâm và Ý lúc nào cũng vọng động vì những hình ảnh của sự Dâm Dục.
Nếu mức độ Tà Dâm lên khá cao thì có thể gây ra việc Sát Hại hay đưa đến những hành động Hiếp Dâm, Cưỡng Bức hoặc là Ấu Dâm kẻ khác.
Tại sao gọi đó là 5 Tánh Xấu căn bản? Vì 5 cái Tánh Xấu này làm cho một Chúng Sanh mất đi Tư Cách NGƯỜI, mất đi cái Nhân Cách đúng nghĩa của một Con Người sống trong cõi Ta Bà.
Nếu con người biết đắn đo, suy nghĩ khi vung tay thì chắc chắn rằng việc sát hại một Đồng Loại của mình, hay ngay cả sát hại một con vật sẽ không thể nào xảy ra được. Giảm thiểu được Tánh Sát Sanh, con người sẽ học được bài học Thương Yêu, biết thương yêu Loài Người và yêu thương luôn Loài Vật.
Nghiệp Chướng sẽ dễ dàng gây tạo đối với một người có tánh trộm cắp. Ngạn ngữ có câu " Đi đêm có ngày gặp Ma". Ăn cắp, ăn trộm cũng sẽ có lúc bị người bắt gặp; nếu không may bị bắt thì cảnh tù đày cứ cầm chắc trong tay, nếu chạy thoát được thì xác suất giết người để thoát thân hay ít nhất là làm cho người khác bị thương tích cũng sẽ lên rất cao, do đó Oan Trái không sao tránh khỏi.
Bỏ được cái tánh Trộm Cắp, tức khắc sẽ trở về với cái Tánh Lương Thiện hồi đầu của mình, khi mình biết tôn trọng vật sở hữu của kẻ khác thì đương nhiên người khác cũng biết tôn trọng vật sở hữu của mình, như vậy làm sao Nghiệp Lực được gây tạo nên?
Người đã có thành tích nói dối, đến khi nói thật không có ai tin! Hằng ngày, sự giao tế đặt nền tảng trên sự Tin Tưởng lẫn nhau, do đó, Tánh Chân Thật sẽ đem đến sự tin tưởng và giúp cho mọi giao dịch được nhanh chóng, lẹ làng, kết quả tốt đẹp cho cả đôi bên.
Diệt được Tánh Nói Dối, không nói lời bãi buôi, nói 2 chiều, miệng lưỡi, có thể gây tương tàn, sát hại lẫn nhau, chắc chắn rằng sẽ có một Tánh Tốt chực chờ để thay thế cho Tánh Nói Dối, giúp cho mọi người tin tưởng nhau nhiều hơn, và sự giao tế sẽ càng ngày càng tốt đẹp hơn lên, đó chính là Tánh Chân Thật, Tánh Ngay Thẳng, Tánh Thật Thà.
Người thích uống rượu, tự bản chất, không nói lên sự sai lầm khi người đó biết tự tiết chế mình. Giữa lúc trời đông tuyết giá, cần một chút rượu để giữ ấm cơ thể, bụng đang cơn quặn thắt, cần một chút rượu để làm giảm cơn đau, bạn bè đến nhà thăm viếng, một ly rượu mừng bạn đến chơi, hay 1,2 ly rượu uống trong bữa tiệc chung vui nào đó... tất cả đều được dễ dàng chấp nhận.
Tuy nhiên, uống đến trở thành say, đến không còn tự chủ được nữa, đến quên luôn cả đường về, đến trở thành bệnh hoạn, đến mất luôn Nhân Cách, mất cả Lương Tri, thì cái uống đó đã trở thành một Tánh Xấu vô cùng cực.
Buông bỏ được tánh uống rượu, thoát được cơn nghiện rượu, đương nhiên sẽ trở về với bản tánh Sống biết Tự Trọng, Sống có Lề Lối, có Chừng Mực và không Buông Thả.
Nói về cái Tánh Tà Dâm thì, nếu một con người cứ mãi đắm chìm trong sự dâm dục, lấy những hình ảnh khiêu dâm làm thú tiêu khiển thì chắc chắn rằng việc bệnh hoạn từ thân xác đến tinh thần là điều không sao tránh khỏi.
Diệt được cái tánh tà dâm, cuộc sống sẽ Hợp Vệ Sinh hơn, có nghĩa là sẽ sống Thoải Mái hơn, thân thể Khỏe Mạnh hơn, tinh thần Phấn Chấn hơn, Tâm Ý sẽ trong sáng hơn với những hình ảnh, những ý tưởng Cao Thượng thay cho những hình ảnh đầy dục tính.
Buông bỏ được tánh tà dâm, cái nhãn quan "đen tối" sẽ được thay thế bằng cái nhìn trong sáng hơn, đứng đắn hơn và cân nhắc hơn.
Hôm nay, Vong Linh đã được biết thêm về 5 cái Tánh Xấu tác động lên trên nền tảng của cuộc sống làm Người của mình trong cõi Ta Bà. Nếu không cố gắng triệt tiêu thì khi trở lại làm Người, Thần Thức của Vong Linh trong thân xác mới sẽ không thể nào "tiến" lên được. Những tánh xấu đó sẽ luôn trì kéo, khiến cho thân xác khó lòng vươn lên, cuộc đời cứ mãi trầm trệ cho đến hết kiếp, không làm nên được điều gì hữu ích cả, cho Mình lẫn cho Người.
Vong Linh hãy thành tâm nói lời phát nguyện như sau đây:
Vong Linh (Tên họ... Pháp Danh...) xin phát nguyện trước các Đấng Từ Bi, con xin hoàn toàn triệt tiêu những Tánh Xấu sau đây: Tánh sát sanh - Tánh trộm cắp - Tánh nói dối - Tánh uống rượu - Tánh tà dâm.
Con nguyện khắc cốt ghi tâm những Tánh Tốt như sau: Tánh biết thương yêu Người lẫn Vật - Tánh lương thiện - Tánh thật thà, chân thật, ngay thẳng - Tánh biết tự trọng, sống có lề lối, có chừng mực, không buông thả - Tánh đứng đắn và nghiêm chỉnh.
Buổi giảng Pháp đến đây là chấm dứt. Vong Linh đừng quên luôn luôn Sám hối - Trì Chú - Niệm Phật để làm nhẹ bước chân của mình trên đường tìm chỗ thác sinh. Hãy luôn tâm niệm khắc ghi những Tánh Tốt và loại trừ những Tánh Xấu ra khỏi Tâm Thức của mình.
Ngày thứ 4:
Bài Pháp hôm nay sẽ giúp cho Vong Linh hiểu một cách tận tường, thế nào là Nghiệp Lực? Sự hình thành của nghiệp lực như thế nào?
Qua Luật Nhân Quả, Vong Linh đã hiểu được rằng, gieo Nhân nào thì sẽ gặt được Quả nấy. Hạt CÀ đã gieo xuống đất, chẳng bao lâu, cây cà sẽ mọc lên, và trên cây sẽ nặng trĩu những Trái CÀ. Không thể nào tìm thấy những Trái ĐẬU ở trên cây cà được!
Nói về CON NGƯỜI, bất kỳ một Hành Động nào của một người cũng sẽ được ví như một Hạt Nhân. Hành động đó xuất phát từ ở cái Tâm mong muốn của người đó, do từ ở cái Ý tính toán, sắp xếp của chính họ, và tùy vào cái Tánh Xấu hay Tốt của chính người đó, mà cái Hành Động này sẽ trở nên là một hành động mang tính cách lợi ích hay tai hại.
Một hành động mang tính cách lợi ích được sinh sôi nẩy nở trên mảnh đất Tâm phì nhiêu luôn được vun bồi bởi những mong cầu tốt đẹp, hướng về Chân-Thiện-Mỹ, cộng thêm với cái Ý trong sáng luôn ngập tràn những tư tưởng cao thượng, cái kết quả thu nhặt được sẽ rất là tốt đẹp.
Một hành động mang tính cách tai hại cũng được sinh sôi nảy nở trên mảnh đất Tâm, nhưng đó là một mảnh đất khô cằn, nứt nẻ, luôn mong cầu những điều Hại Người mà Lợi Mình, thêm vào đó là một cái Ý đen tối, nhiều mưu đồ, nhiều tính toán, như vậy chắc chắn rằng kết quả thu lượm được sẽ rất là thương tâm, nhiều nước mắt, đầy oán hờn và tràn ngập bất công. Chính cái kết quả này đã tạo nên một Vòng Nghiệp Lực có tên là vòng nghiệp lực Tâm - Ý - Tánh. Cứ mỗi một hành động sai trái là tạo nên một Vòng nghiệp lực, càng nhiều hành động không đúng, càng có nhiều vòng nghiệp lực tạo nên.
Trong suốt một đời Người, đã có biết bao nhiêu hành động được thể hiện, tốt có, xấu có, kinh khủng có, quái dị có, càng có nhiều Tánh Xấu sẽ càng có nhiều hành động sai trái, đôi khi kém Nhân Bản, kém Đạo Đức, kém Từ Bi, và đương nhiên là có vô số Vòng Nghiệp Lực được hình thành. Nói tóm lại là, Chúng Sanh của cõi Ta Bà càng trôi lăn trong vòng Sanh Tử, càng ra sức Tạo Nghiệp; Nghiệp Lành cũng là Nghiệp, Nghiệp Dữ cũng là Nghiệp. Giữ làm sao để cho đến lúc lìa khỏi cuộc đời, không phạm, hoặc vã chỉ phạm rất ít những điều sái quấy, luôn làm những điều tốt đẹp, thì xem như người đó cũng đạt được ít nhiều điều hay đẹp cho đời sống Tâm Linh của mình rồi.
Tánh là những cây cột cứng chắc, chống đỡ cho căn nhà được vững vàng. Mỗi một tánh xấu được ví như loài MỐI đục khoét làm cho mục cây, khiến lâu ngày cột kèo gãy đổ, căn nhà cũng sẽ sụp đổ theo. Cho nên, cần phải sửa hết những Tánh Xấu của mình để mới có thể chống chọi lại với Nghiệp Lực ùa tới. Khi Tánh còn vọng động, Tâm không yên thì Nghiệp sẽ phá tác.
Nghiệp Lực của mỗi Chúng Sanh được gây tạo ra tùy theo Tâm Tánh của Chúng Sanh đó qua nhiều đời nhiều kiếp. Một khi Vòng Nghiệp Lực đã thành hình rồi thì chỉ có mỗi một mình Chúng Sanh đó mới có đủ tư cách để PHÁ và THOÁT khỏi vòng nghiệp lực mà thôi. Không một ai có thể thay thế để làm được việc đó, kể cả Chư Phật và Bồ Tát.
Các Đấng Từ Bi chỉ có thể nhanh nhẹn cứu người Phước Đức gặp nạn tai, hung hiểm, nhưng hoàn toàn không vướng vào nghiệp lực của người đó. Các Ngài tuyệt đối không thể nào ôm hết tất cả những nghiệp chướng quái ác của Chúng Sanh vào trong tay của các Ngài được. Các Ngài chỉ có thể giúp cho Chúng Sanh phương tiện để phá tan hầu thoát khỏi nghiệp chướng của mình mà thôi.
Khi còn tại thế, có những Chúng Sanh đem hết tâm thành để tu tập, hằng ngày hết lòng hành trì Sám Hối - Trì Chú - Niệm Phật, đem công đức đó hồi hướng lại cho các Oan Gia Trái Chủ, những người mà mình đã tạo nghiệp chướng với họ, làm được chút ít việc Phước Đức nào cũng ân cần hồi hướng cho họ để tỏ rõ sự chân thành hối cải của mình.
Ngày nay làm thân Vong Linh cũng được hưởng đặc ân 49 ngày để chăm lo tu tập. Lúc còn sống, Thân Xác của Vong Linh đã không tỏ ra hối lỗi ăn năn, nay ra người thiên cỗ, đây là dịp cuối cùng để tỏ rõ Thiện Chí Hối Lỗi của mình. Nghiệp lực tuy rằng không hoàn toàn triệt tiêu, nhưng không trì kéo nữa, không còn nặng nề như trước nữa, nhờ đó mà Vong Linh mới có thể cất bước được để tìm đường thác sanh.
Đầu mối gây tạo ra nhiều Nghiệp Chướng chính là Sự BẤT CẦN. Vì bất cần cho nên không lắng nghe những lời khuyên, những lời đúng. Do đó đã tạo ra vô số Vòng Nghiệp Lực.
Ngoài ra, Tánh HÁO THẮNG cũng rất dễ gây xích mích với mọi người.
Kẻ học cao hiểu rộng, kẻ có chức tước quyền uy, người nhiều tiền lắm bạc, cao sang quyền quý, mang trong người cái Tánh TỰ CAO TỰ ĐẠI, hay khinh chê, miệt thị kẻ dưới tay mình, những hạng người này cả cuộc đời không ngừng tạo nên Nghiệp Chướng.
Càng ở trên cao vòi vọi, Tự Ái sẽ càng lớn, càng nhiều. Đã mang trong người cái Tánh Tự cao tự đại rồi thì cũng khó lòng kềm hãm được sự HÁCH DỊCH đối với người thua kém hơn mình. Tùy vào cường độ hách dịch cao hay thấp, ra oai nhiều hay ít mà số người ghét sẽ lên cao hay xuống thấp. Người không có thiện cảm với mình càng nhiều thì Nghiệp Chướng càng dễ phát sinh.
LẮNG NGHE là một Tánh Tốt. Có lắng nghe mới hiểu rõ được người đang nói chuyện với mình muốn nói cái gì? Do đó sẽ không hiểu sai ý người ta muốn nói. Lắng nghe để cảm thông với hoàn cảnh mà người ta trình bày, xem coi mình có thể giúp đỡ gì được hay không? Lắng nghe một lời khuyên thành tâm thành ý, một lời chia sẻ hết lòng, vẫn là mang lại cho mình nhiều lợi lạc. Triệt tiêu cái tánh xấu BẤT CẦN có thể gây tạo nhiều nghiệp chướng, sẽ sở hữu được cái tánh Lắng Nghe.
Người có tánh HÁO THẮNG luôn bộp chộp, kém suy nghĩ trước khi hành động, do đó hay bị "hố", công việc khó thành công, không biết cân nhắc lời nói cho nên dễ làm phiền lòng người khác. Một khi có sự hiện diện của Sân Hận thì tức khắc vòng nghiệp lực sẽ đóng lại ngay. Tánh ĐIỀM ĐẠM, BÌNH TĨNH vẫn luôn luôn là những Tánh Tốt để thay thế cho Tánh Háo Thắng cần phải triệt tiêu.
Tánh TỰ CAO TỰ ĐẠI cần phải được buông bỏ xuống để mới có thể sống BÌNH ĐẲNG và HÒA ĐỒNG với tất cả mọi người.
Triệt tiêu được Tánh HÁCH DỊCH, con người sẽ trở nên KHIÊM TỐN và NHÚN NHƯỜNG hơn.
Vong Linh hãy ráng cố gắng khắc cốt ghi tâm những Tánh Tốt để làm hành trang cho mình khi trở lại cõi Ta Bà trong một thân xác mới, làm cho Thân Xác đó được khởi sắc hơn với một cuộc sống Hướng Thượng và Hướng Thiện.
Vong Linh hãy thành tâm nói lời phát nguyện như sau đây:
Vong Linh (Tên họ... Pháp Danh...) xin phát nguyện trước các Đấng Từ Bi, con sẽ hoàn toàn triệt tiêu những Tánh Xấu: Tánh Bất Cần - Tánh Háo Thắng - Tánh Tự Cao Tự Đại - Tánh Hách Dịch.
Con nguyện khắc cốt ghi tâm những Tánh Tốt sau đây: Tánh Lắng Nghe - Tánh Điềm Đạm - Tánh Bình Tĩnh - Tánh Bình Đẳng và Hòa Đồng - Tánh Khiêm Tốn và Nhún Nhường.
Buổi giảng Pháp hôm nay đến đây là chấm dứt. Vong Linh hồi vị, đừng quên luôn luôn Sám Hối - Trì Chú - Niệm Phật để cho tiêu một phần nào những Nghiệp Chướng của mình, hầu làm nhẹ bước chân trên đường tìm chỗ thác sanh. Cố gắng triệt tiêu những thói hư tật xấu và khắc ghi vào Tâm Thức những Tánh Tốt để làm kim chỉ nam cho cuộc đời của mình ở kiếp Vị Lai.
Ngày thứ 5:
Hôm nay là ngày thứ 5 của thời gian đặc ân 49 ngày giúp Siêu Độ cho Vong Linh.
Tính đến hôm nay, Vong Linh đã trải qua 5 lần hành trì Sám Hối. Thử hỏi rằng, Vong Linh đã tư duy việc sám hối của mình như thế nào? Đó là một lời nói suông hay đó là một cảm xúc chân thành phát xuất từ Tâm?
- Ngày còn hiện thế, có khi nào Vong Linh thản nhiên đi ngang qua một người đang đói lạnh bên vệ đường hay không?
- Có khi nào Vong Linh chửi rủa thậm tệ một kẻ lỡ làm ố hoen bộ đồ đẹp hay vật gì đẹp trên người của Vong Linh hay không?
- Có khi nào Vong Linh lập mưu mô để đưa một người nào đó vào bẫy rập để trả thù, trả hận hay không?
- Có khi nào Vong Linh gian dối để hại người hay không?
- Có khi nào Vong Linh toan tính để cướp đoạt của người hay không?
- Có khi nào Vong Linh có những trò chơi quái ác làm hại Người hay không?
- Có khi nào Vong Linh tỏ lộ những cử chỉ, những hành động kém nhã nhặn, vô giáo dục đối với người chung quanh hay không?
- Có khi nào Vong Linh tỏ ra bất kính hay xem thường những người lớn tuổi hay không?
- Có khi nào Vong Linh xem thường luật lệ của Xã Hội, của Quốc Gia mình cư ngụ hay không?
- Có khi nào Vong Linh khai gian để thụ hưởng thật nhiều phúc lợi Xã Hội hay không?
Khi một người hay một sự việc nào đó không đem lại sự hài lòng cho Vong Linh thì Vong Linh có hay càu nhàu không?
Những câu hỏi trên đây được nêu lên vì nó xuất phát từ ở TÂM của Vong Linh, tức là từ ở cái muốn, từ ở những toan tính của Vong Linh, cộng thêm với những thói hư, tánh xấu, khiến cho Vong Linh không e dè, không ngần ngừ, thẳng tay hành động. Từ lúc còn son trẻ cho đến lúc trưởng thành, thậm chí ở tuổi xế chiều, Vong Linh vẫn không ngừng vung tay hành động.
Những câu hỏi trên có tính cách bao quát, nhưng, không có nghĩa rằng không có ai hành động, mà trái lại, rất nhiều! Nhiều cho đến nỗi, tất cả những cái Tâm xấu ác, sai trái của Chúng Sanh đã kết chặt lại thành một KHỐI cứng chắc để đồng chiêu cảm những Biến Động từ Địa Lý đến Dịch Bệnh, đến Chiến Tranh Máu Lửa trong tương lai.
Ngày hôm nay, với tư cách là một Vong Linh, kẻ đã xa rời Trần Thế, nhìn trở lại cuộc sống của mình trước lúc ra đi, kiểm điểm lại từng hành động, từng cử chỉ, từng quyết định, từng toan tính mà mình đã trải qua, để thấy rằng mình đã tạo quá nhiều sai lầm, sai lầm cho chính bản thân mình, sai lầm cho người Đồng Loại của mình, sai lầm cho Quốc Gia Dân Tộc mình và luôn cả sai lầm cho cái Vũ Trụ đã dung chứa mình.
Cũng có khi điều sai lầm mà mình đã làm cũng chỉ một mình mình biết, một mình mình hay, do đó cần phải ăn năn sám hối cho thật chân thành để cho lỗi lầm này được tan đi. Nếu nó vẫn còn đó thì khi trở lại kiếp Người, nó sẽ làm cho cái Thân Xác Mới đau khổ đến tận cùng.
Hiểu rõ như vậy để Vong Linh thấy rằng Vong Linh không thể nói lời Sám Hối "suông", mà lời sám hối đó phải xuất phát từ ở cái Tâm chân thật, từ ở tấm lòng tha thiết. Những lời sám hối là những dòng nước gột rửa, làm sạch những vết dơ từ trong Tâm của Vong Linh. Dù là một vết dơ thật nhỏ cũng vẫn không bỏ qua. Không gột rửa ngay từ bây giờ, vết dơ đó có thể sẽ lớn rộng ra và đậm nét hơn khi Vong Linh trở lại cõi Ta Bà trong thân xác mới. Tánh xấu thường có khuynh hướng bộc phát chớ không thu hẹp lại, trừ khi nào có một sự quyết tâm tích cực triệt tiêu nó. Tánh xấu càng bộc phát, nghiệp chướng càng tạo thêm, đá nặng mang càng nhiều, cuộc đời càng trắc trở.
Đây là một dịp rất tốt giúp cho Vong Linh chiêm nghiệm lại, nghĩ suy lại, ôn tập lại, moi hết từ trong Tâm mình ra những điều sai trái mà mình đã làm, đã phạm trong thời gian mình còn gắn bó với cuộc đời trên Dương Thế, để rồi sau đó đem hết Tấm Chân Tình của mình Sám Hối Ăn Năn. Khi Nhân Duyên đã đủ, Vong Linh trở lại cõi Ta Bà trong một Thân Xác mới, dung chứa một Thần Thức đã được "gột rửa" những Tánh Xấu, những Thói Hư, sẵn sàng để tiếp nhận những điều hay, điều tốt đẹp, điều hữu ích, giúp cho sự Thăng Hoa của Thần Thức trong tương lai.
Vong Linh đừng nên chấp chặt những Vướng Mắc, phải buông bỏ xuống tất cả những lỗi lầm của mình để mà sám hối ăn năn cho tiêu bớt Nghiệp. Đừng để thời gian đặc ân 49 ngày trôi qua một cách lãng phí, Vong Linh sẽ trở nên không siêu thoát, khi đó Vong Linh sẽ phải chịu trăm cay nghìn đắng của thân phận một Vong Linh không siêu thoát, thời gian kéo dài rất lâu, có khi cả trăm năm hay tới nghìn năm, cho đến khi nào Vong Linh tự mình thấu hiểu được sự sai lầm của mình để mà hối lỗi ăn năn. Tìm được một Thiện Tri Thức chỉ dẫn, vạch vòi cho mình (ở tại cõi Âm) thật không khác gì mò kim đáy biển.
Hãy cố gắng lợi dụng thời gian Đặc Ân 49 ngày này để hết lòng tu tập, buông bỏ hết những gì bất ổn trong Tâm mình; tất cả những oán hờn, những oan tình, những nỗi niềm khó thổ lộ cùng ai, những điều mình giữ kín trong lòng.....hãy xóa tan hết để giúp cho Vong Linh được nhẹ nhàng cất bước. Nên nhớ rằng tất cả những vướng mắc đó cũng chỉ là Nghiệp Lực do mình gây tạo ra trong quá khứ, mà đã là Nghiệp Lực thì chỉ có thể đem hết Tâm Thành để sám hối ăn năn, nghiệp lực mới có thể tiêu lần đi.
Vong Linh hãy nói lời Phát Nguyện sau đây:
Vong Linh (Tên họ...Pháp Danh…) xin phát nguyện trước các Đấng Từ Bi, con nguyện đem Tấm Chân Tình của con để Ăn Năn Sám Hối tất cả những nghiệp tội từ nhiều đời nhiều kiếp cho đến kiếp vừa qua. Nghiệp chướng dù lớn hay nhỏ cũng đều do chính con gây tạo ra từ Tâm Tánh xấu ác. Con nguyện triệt tiêu tất cả những Tánh xấu xa độc ác luôn hại Người hại Vật, và tích lũy thật nhiều Tánh tốt để làm hành trang trở lại cõi Ta Bà, sống có ý nghĩa hơn và luôn xứng đáng với cuộc sống làm Người.
Cúi xin các Đấng Từ Bi tác đại chứng minh!
Bài Pháp hôm nay chấm dứt nơi đây. Vong Linh hồi vị, hãy cố gắng chiêm nghiệm lại từng việc sai lầm mà mình đã phạm phải khi còn trên Dương Thế. Đem hết Tâm Thành để Sám Hối lỗi lầm, Nghiệp Tội sẽ tiêu bớt đi, việc thác sanh sẽ nhiều lợi lạc hơn, cuộc đời Mới sẽ bớt nặng nề. Đừng quên khắc cốt ghi tâm việc triệt tiêu những Tánh xấu và hãy ráng ghi nhớ những Tánh tốt, vì nó sẽ giúp cho cuộc đời mới của Vong Linh được nhiều tốt đẹp.
Ngày thứ 6:
Bài Pháp hôm nay sẽ hướng dẫn để giúp cho Vong Linh tư duy về những bước thăng trầm của cuộc đời đã qua. Những bước thăng trầm đó thoạt xem thì rất là nhẹ nhàng, êm ả, nhưng, nó đã bao phen đưa cuộc đời của Chúng Sanh từ thấp lên cao, rồi cũng chính nó làm cho cuộc đời của Chúng Sanh trôi lăn xuống vực thẳm để không còn vực dậy được nữa.
Chỉ có 7 Bước Thăng Trầm thôi cũng đủ làm cho cuộc đời của một Chúng Sanh chao đảo, tuy nhiên, điều đáng nói là không có một Chúng Sanh nào từ chối bước lên 7 bước chân này. Nó vô cùng quyến rũ, không mời gọi mà ai cũng muốn "nhào vô", cũng muốn bước đi thử để trải nghiệm.
7 bước chân này có tên gọi là Thất Tình, chính là: Hỷ - Nộ - Ái - Ố - Ai - Bi - Dục Lạc.
Vong Linh hãy lần lượt tư duy từng bước một của 7 bước chân này qua những thí dụ sau đây:
HỶ: Đứng đầu của Thất Tình là Hỷ, tức là Vui. Vui là một trạng thái nói lên sự rộn ràng, phơ phới, thích thú, xen lẫn sự sung sướng. Trạng thái đó chính là cái kết quả của một cái Muốn được thỏa mãn, hay một Tự Ái được vuốt ve!
Tôi đang mơ ước một chuyến đi trượt tuyết ở vùng núi mà tôi ưa thích. Mơ ước này lại trùng hợp với ý thích của người bạn thân. Chuyến đi trượt tuyết của cả 2 sẽ vui vẻ trọn vẹn biết bao nếu không có tai nạn xảy ra, khiến tôi phải bị thương rất nặng ở chân do sơ ý khi trượt tuyết.
Sau một thời gian dài theo đuổi, cô bạn gái chấp nhận lời cầu hôn của tôi. Chúng tôi tiến đến hôn nhân và chuẩn bị một cuộc sống Hạnh Phúc cho tương lai. Tuy nhiên, sau một thời gian chung sống, cả 2 đều nhận chân ra được sự thiếu hòa hợp từ trong tư tưởng lẫn đến sở thích, cũng như nhân sinh quan. Thế là hôn nhân tan vỡ, đường ai nấy đi.
NỘ: Tức là Giận Dữ. Đây là sự biểu lộ của một Tự Ái bị va chạm, của một cái Muốn không được thỏa mãn.
Tùy theo cường độ của sự va chạm Tự Ái hay việc không thỏa mãn hoặc thỏa mãn rất ít cái Muốn, mà cơn giận dữ sẽ lên cao nhiều hay ít.
Đứa bé vừa được người Mẹ cho một cây kẹo trái cây rất ngon. Ăn xong, đứa bé xin thêm; Mẹ không cho, bảo đủ rồi; đứa bé bắt đầu la khóc, đập phá đồ vật chung quanh, quyết đòi cho được cây kẹo. Mẹ đang chuẩn bị thức ăn cho bữa cơm chiều, lật đật chạy đến vổ vành, nhưng lại quên rằng mình đang cầm con dao. Còn đang loay hoay ngăn chận cơn đập phá của đứa bé thì một tiếng thét lớn kèm theo máu văng tung tóe! Thì ra, đứa bé vì vùng vẫy để thoát khỏi tay của Mẹ, đã quơ trúng mũi dao và thương tích xảy ra trên cánh tay của đứa bé.
Hai vị hoàng tử của 2 quốc gia tranh giành nhau một cô công chúa. Cuối cùng thì mỹ nhân chỉ có thể chọn một trong hai. Kẻ bại trận trong tình trường biểu lộ sự phẫn nộ của mình bằng cách đem hùng binh tiêu diệt đối phương.
ÁI: Có nghĩa là Thương, là Yêu, là đặt hết tình cảm của mình vào một người nào đó.
Một người Mẹ đã tốn quá nhiều công sức cũng như tiền bạc để giữ mạng sống của đứa con mình. Đứa bé được bao bọc trong tình thương tuyệt đối của người Mẹ, được nuông chiều, được nâng niu và cung phụng. Cái kết quả là, khi đứa bé đã trưởng thành, đủ sức bay nhảy thì người mẹ lại chẳng bao giờ nhìn được mặt con cho đến ngày người Mẹ đó tàn hơi kiệt sức.
Một đôi Nam-Nữ yêu nhau tha thiết, tưởng không có gì có thể bứt rời họ được; thế mà một ngày đẹp trời, người Nam đã lẳng lặng bỏ đi, để lại một sự ngẩn ngơ, tiếc nhớ đến độ trầm cảm của người thiếu Nữ.
Ố: Từ ngữ này diễn tả một sự ganh tị, ghen ghét.
Do sự ganh tị thành quả thu đạt được mà nguyên cả đội banh thắng giải đã bị đột kích thanh toán không còn một mạng sống.
Cũng vì cái ghế "Giám Đốc" khiến cho biết bao nhiêu người trầm trồ, mơ ước, tranh giành mà tình bạn khắng khít bấy lâu nay giữa 2 cậu trai này bỗng nhiên tan rã và trở thành thù hận.
AI: Đây là một cảm xúc dâng cao, nói lên một niềm thương tiếc, một tình cảm buồn đau da diết, não nề, thường là của người Sống trao gởi về cho người Quá Cố.
BI: Diễn tả một tâm trạng buồn, một nỗi niềm đầy ắp tâm sự, đầy nỗi thương tâm.
DỤC LẠC: Nói lên một trạng thái sung sướng, vui vẻ, thỏa mãn, đạt được cái ước muốn cao tột thuộc về dục tính.
Từ nãy giờ Vong Linh đã nghe qua ý nghĩa của từng bước chân, với những thí dụ nhằm khơi lại những gì đã có thể xảy ra trong cuộc đời vừa qua của Vong Linh. Những gì mà Vong Linh cho rằng vui, làm cho lòng rộn ràng, làm cho lòng náo nức, thử đặt câu hỏi: cái vui đó kéo dài được bao lâu? Sau tiếng cười rộn rã, sau canh bạc thâu đêm suốt sáng, sau khi tiếng cụng ly không còn vang dội nữa, sau khi tiếng cười đùa chấm dứt, sau khi cuộc chơi ngưng đọng lại, sau buổi họp mặt mà ai cũng hăm hở đợi chờ, người đang đặt bước chân lên chữ HỶ sẽ có cảm giác ra sao? Vẫn tiếp tục vui? Hay sau cái vui đó là một nỗi buồn man mác, đầy trống vắng?
Sau cuộc đi chơi là một khoảng thời gian dài tự giam hãm mình hoặc trên giường bệnh, hay trong một hạn chế tối đa những hoạt động, như vậy cuộc đi chơi đó có trọn vẹn hay không?
Niềm vui tìm được người thương vừa ý kéo dài chưa được bao lâu thì mây mù đã kéo đến, che khuất đi cái hạnh phúc tưởng chừng như viên miễn, khiến cho người ở lại ray rứt với nhiều buồn đau và thương nhớ.
Từ trong chữ HỶ đã có chữ BUỒN nằm trong đó! Mà tất cả những buồn vui cũng không phải đương nhiên mà xảy ra đâu. Vong Linh phải nhớ rằng, không phải tự nhiên mà vui, cũng như không phải tự nhiên mà buồn. Tất cả đều bị chi phối, bị lôi cuốn vào Vòng Nghiệp Lực. Đặt bước chân của mình lên chữ HỶ, chính là mình đã hành xử cái vòng nghiệp lực của chữ HỶ rồi đó, chớ không phải chỉ là một cái VUI đơn thuần.
Rồi thì những bước chân kế tiếp, sau chữ Hỷ, đó là Nộ - Ái - Ố - Ai - Bi - Dục Lạc. Đừng nghĩ rằng đây là những từ ngữ diễn tả những trạng thái "suông". Cũng giống như chữ Hỷ, mỗi một trạng thái của Thất Tình đều có dính líu đến vòng nghiệp lực, mà nói đến vòng nghiệp lực thì bắt buộc phải đề cập đến cái Tánh.
Tánh càng xấu, càng nhiều Tham Lam, ngập tràn Tự Ái sẽ khiến cho Sân Hận lên ngút trời, đưa đến những hành động Si Mê, ngu muội, gây tạo ra biết bao nhiêu oan trái. Những oan trái này cũng dính líu chặt chẽ đến Thất Tình Lục Dục. Do đó, càng trôi lăn trong vòng Sanh Tử, càng không thể rời xa 7 bước chân này.
7 bước chân này vô cùng nặng trịch, nó lôi cuốn người ta đi xuống chớ không đi lên được, và điều đáng ghi nhớ là, Chúng Sanh chỉ lẩn quẩn trong 7 bước chân này mà thôi, không thoát ra khỏi 7 bước này được. Chỉ duy nhất có con đường tu tập là mới có thể giúp cho Chúng Sanh lần hồi rút được một chân ra khỏi cái vòng của 7 bước này; sự kiên trì tu tập ngày qua ngày sẽ giúp cho Chúng Sanh đặt được hẳn cả 2 chân ra ngoài khỏi cái vòng của 7 bước chân này. Khi đó, Chúng Sanh mới thực sự SỐNG đời An Nhiên Tự Tại!
Bây giờ thì Vong Linh đã hiểu rõ sự tai hại của 7 bước chân, để từ đó chiêm nghiệm lại những thăng trầm của cuộc đời trong kiếp mới vừa qua. 7 bước chân này đã vô cùng quyến rũ, tuy không mời gọi mà ai cũng muốn "nhào" vô để thử, đặc biệt là không trừ bất cứ một ai!
Bất kỳ bước chân nào của 7 bước chân cũng đều để lộ ra một sự khổ sầu, một sự chán chường, một sự buồn thương, đau đớn, nhiều hận tủi. Tình cảm đặt vào càng nhiều, càng nặng, cái kết quả không vừa ý càng lên cao. Ngay cả bước chân Dục Lạc mà đa số Chúng Sanh của cõi Ta bà đặt trọn niềm tin là sẽ mang đến muôn điều khoái lạc, cũng chỉ thể hiện đau khổ.....và đau khổ. Vì chữ LẠC nằm trong Thất Tình, cho nên vẫn không ra ngoài cái việc dính líu ít nhiều đến vòng nghiệp lực của Chúng Sanh. Chúng Sanh hưởng LẠC là phải chấp nhận việc hành xử vòng nghiệp lực của chữ LẠC, do đó, hưởng Lạc là hưởng sự đau khổ! Nhưng sự đau khổ này được bao bọc bởi một lớp vải nhung rất êm dịu, khiến cho Chúng Sanh nằm trên gai góc mà không nhận ra được rằng mình đang lăn trên gai góc, cho tới khi nào miếng vải nhung đó có chỗ rách đi, Chúng Sanh mới nhận ra rằng máu của mình đã đổ ra khá nhiều.
Chúng Sanh cứ tiếp tục không dừng bước trên 7 bước Thất Tình, để rồi đến khi nhận chân ra được nó thì đã quá muộn màng. Không có một Tình nào trong Thất Tình mà đem lại một sự vuốt ve, nhẹ nhàng, êm ái cả! Tình nào cũng đem lại sự Đau Thương và Nước Mắt.
Tình cảm trong thất tình là một thứ tình cảm dối trá, bên ngoài thì bọc nhung, nhưng bên trong chứa toàn gươm đao. Chúng Sanh cứ thấy lớp vải nhung êm ái bên ngoài thì thích thú, cứ vuốt ve và cho đó là THẬT. Đây chính là đặc tính chung của Chúng Sanh cõi Ta Bà, chỉ biết đánh giá cái bề ngoài mà không thẩm định được cái giá trị ở bên trong, vì vậy không thể phân biệt được Đúng Sai, Phải Trái, từ đó những hành xử của mình cũng đâm ra sai lầm và vô tình gây tạo nhiều điều phiền muộn cho kẻ khác.
Tu tập mới thật sự là đi tìm một sự êm ái, nhẹ nhàng đúng nghĩa. Có tu tập mới biết chỉnh sửa Tâm -Ý - Tánh, nhờ đó mà mới có thể rút được đôi chân của mình ra khỏi cái vòng lẩn quẩn của 7 bước thất tình. Thoát được 7 bước chân này, người tu tập mới có thể phóng mình lên cao, làm quen được với khoảng trời rộng bao la, mới giải phóng được những tư tưởng hạn hẹp, đóng khung trong sự ích kỷ hẹp hòi, trong những mối lợi cá nhân. Tâm mở rộng mới khiến cho lòng Từ Bi bộc phát, mới giúp cho Ý tưởng trở nên cao thượng, mới khiến cho những Tánh tốt trỗi dậy làm động lực giúp cho Người với Người xích lại gần nhau để dễ dàng tương trợ, dễ dàng sống hòa đồng, sống yêu thương và cùng chia sẻ với nhau 2 chữ HÒA BÌNH.
Lời Pháp hôm nay giúp cho Vong Linh hiểu rõ được ý nghĩa của 7 bước thất tình. 7 bước này đã làm cho Vong Linh khi còn trên Dương Thế thất điên bát đảo, cuộc đời thăng trầm chao đảo, khó vững vàng.
Vong Linh hãy khắc cốt ghi tâm rằng, 7 loại TÌNH này đều mang đến KHỔ ĐAU, PHIỀN MUỘN. Không có bất cứ một thứ tình nào đem lại một niềm vui đúng nghĩa, một hạnh phúc triền miên, một lạc thú ở đời. Tất cả tình cảm xuất phát từ ở 7 loại tình này đều là thứ tình cảm dối trá, làm nhiễu loạn sự phán đoán của con người và dụ con người vào một niềm tin giả tạo, tưởng rằng mình đang nằm trên gấm trên nhung, nhưng thật ra là mình đang nhoài người lên giáo dài, gươm nhọn.
Hiểu được như vậy thì khi trở lại cõi Ta Bà trong một thân xác mới, Thần Thức của Thân Xác đó sẽ thận trọng hơn khi di chuyển 7 bước chân của mình, sẽ không quá tự tin cũng như luôn đề phòng những kết quả không tốt đẹp có thể xảy ra. Điều đáng nói chính là, Vong Linh ngay từ bây giờ phải tích cực Sửa Tánh, càng sửa Tánh thì mối tương quan giữa nghiệp lực của chính Thân Xác Mới với vòng nghiệp lực của mỗi bước chân sẽ trở nên lỏng lẻo hơn, tạo cơ hội cho việc rút đôi chân của Thân Xác Mới ra khỏi cái vòng lẩn quẩn của 7 bước Thất Tình.
Nghiệp lực của mỗi Chúng Sanh lúc nào cũng chực chờ bùng lên để phát tán. Do đó, một Tâm - Ý - Tánh luôn vọng động theo mỗi bước chân của Thất Tình sẽ là một sự kết hợp rất là "ưng ý" của cả 2 vòng nghiệp lực, châm ngòi cho sự bùng phát mạnh mẽ của nghiệp lực của mỗi Chúng Sanh.
Giữ Tâm Thanh Tịnh, luôn ở trạng thái Bình trong mỗi bước chân di chuyển của Thất Tình là cách tốt nhất không tạo ra "GIÓ", làm khơi dậy ngọn sóng thần nghiệp lực, mang đến nhiều phiền lụy, nhiều nước mắt, nhiều thương tâm cho cuộc đời của một Chúng Sanh.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt, Vong Linh hãy cố gắng thâm nhập và ghi nhớ những lời Pháp này vì nó giúp cho Thần Thức của Vong Linh trong Thân Xác Mới ổn định được một phần nào sự chao đảo trong cuộc đời của Thân Xác Mới trong vòng kiềm tỏa của Thất Tình.
Ngày thứ 7:
Bài Pháp hôm nay nói về chữ ÁI, có nghĩa là Thương. Đó là sự biểu lộ tình cảm của một người đối với một người hay với nhiều người.
Có 3 loại Ái khác nhau đã tác động lên hầu hết mọi Chúng Sanh, đó là:
- Ái Tha: tức là lòng thương người
- Ái Dục: chữ Ái đi kèm với dục vọng, với mong cầu
- Tự Ái: chữ Ái chỉ do một cá nhân thụ đắc mà thôi.
ÁI THA:
Chữ Ái nơi đây thể hiện Tình Người. Nó giúp cho Chúng Sanh sống gần gũi nhau hơn, hiểu biết nhau hơn, thương mến nhau trong cách đối xử, giao tế và tương trợ. Trong một xã hội, nếu tất cả Chúng Sanh đều tôn trọng lẫn nhau, thương yêu lẫn nhau thì sẽ dễ dàng tha thứ cho nhau và giúp đỡ lẫn nhau. Sẽ không có sự hiện diện của những tánh ích kỷ, hẹp hòi, bỏn sẻn giữa các Chúng Sanh; mọi người sẽ đối xử với nhau trong một tinh thần tương trợ lẫn nhau.
Trên bình diện địa lý, giữa Quốc Gia này với Quốc Gia kia, sự hiện diện của Ái Tha sẽ giúp cho các quốc gia sống trong hòa bình. Nước giàu có tương trợ cho nước nghèo kém, nước hùng mạnh nâng đỡ cho nước thế cô, sức yếu, như vậy sẽ không có vấn đề kẻ mạnh lấn áp kẻ yếu.
Về phương diện giao tế, vai trò của Ái Tha cũng rất quan trọng. Nếu mọi người đều tuân thủ đúng cái tính chất của chữ Ái này thì các mối tương quan sẽ dễ dàng, sẽ thuận lợi và sẽ mang đến một kết quả tốt đẹp. Từ trong làng xóm, ra đến thành phố, tiến đến ngoài xã hội, hay trong một quốc gia, và rộng hơn nữa là cả một thế giới, trật tự nơi nơi đều được tôn trọng, chiến tranh sẽ không xảy ra, và mọi người sống trong sự an bình, hạnh phúc.
Qua chữ Ái này, Chúng Sanh học được nhiều Tánh Tốt như: Tánh tương trợ - Tánh giúp đỡ - Tánh chia sẻ - Tánh nói năng nhỏ nhẹ hòa nhã - Tánh biết thương người.
Nhờ đó, Chúng Sanh cũng triệt tiêu được những Tánh xấu như: Tánh ích kỷ, hẹp hòi, bỏn sẻn - Tánh hay miệt thị - Tánh khinh chê - Tánh xem thường người yếu kém - Tánh bạc đãi người nghèo khó - Tánh lãnh đạm trước nỗi bất hạnh của người.
ÁI DỤC:
Chữ Ái này đi kèm với Dục Vọng là vì, từ chữ Ái này mới phát sinh ra tình cảm giữa Trai và Gái, giữa người này với người kia. Một khi giữa Trai và Gái bị ràng buộc bởi chữ Ái, luôn luôn Dục Vọng phải đi kèm để mới có thể diễn tả rằng, người trai này muốn sở đắc người gái kia, hay ngược lại, người nữ kia muốn sở đắc người nam nọ.
Chữ Ái này vì đi kèm với Dục Vọng, cho nên lại là đầu mối của nghiệp lực. Nói đến Dục Vọng, phải nghĩ ngay rằng nó có liên quan đến cái Tánh; khi có liên quan tới cái Tánh, tức khắc nó có liên quan tới cái Ý. Tánh và Ý đã có sự tương quan mật thiết thì sẽ làm cho Tâm rung động. Do đó mà vòng nghiệp lực đã tạo ra.
Một khi có dính líu đến vòng nghiệp lực thì tức khắc phải quay về với quá khứ vì nó có một sự kết nối chằng chịt với nhau từ vô thỉ kiếp.
Trai gái gặp nhau, con cái gặp cha mẹ, anh chị em sống chung dưới một mái nhà, bà con họ hàng thân thuộc...., tất cả những quan hệ nêu trên đều vây quanh ÁI DỤC. Cho nên, chữ Ái này là đầu mối tạo ra biết bao nhiêu cảnh khóc cười của Chúng Sanh.
Cũng từ chữ Ái này, Chúng Sanh trải nghiệm với những Tánh Tốt sau đây: Tánh hiếu thảo với Ông Bà, Cha Mẹ - Tánh thủy chung trong đạo vợ chồng - Sống có nhân có nghĩa - Biết thương yêu đùm bọc giúp đỡ anh chị em, bà con dòng họ.
Đồng thời, Chúng Sanh cũng tiêu diệt được những thói hư tật xấu sau đây: Tánh bất hiếu - Tánh bất nhân bất nghĩa - Tánh thiếu chung thủy - Tánh ăn chơi, rượu chè, cờ bạc (làm mất đi tư cách người chồng) - Tánh phung phí, ăn chơi, chưng diện (làm mất đi tư cách người vợ).
TỰ ÁI:
Chữ Ái này chỉ do một cá nhân thụ đắc mà thôi; nó cũng thuộc về loại Ái dính liền với Dục Vọng, tức là có liên quan đến cái Tánh, mà nói đến cái Tánh tức là đề cập đến một cá nhân. Cho nên, sự hình thành của Vòng Nghiệp lực của một cá nhân bắt nguồn từ chữ Ái, và vì chỉ do một cá nhân thụ đắc, nên nó được gọi là Tự Ái.
Không thể nào đem Tự Ái của cá nhân này gán vào cho cá nhân khác được. Chữ ÁI do cá nhân thụ đắc bị ràng buộc bởi nghiệp lực của chính cá nhân đó, tạo nên do chữ Ái.
Những thăng trầm của Thất Tình xoay chung quanh và quấn chặt chữ Ái, khiến cho một cá nhân bị chi phối rất nhiều. Từ đó có thể đưa ra một nhận thức rằng, cần phải kiểm soát rất là gắt gao những tình cảm, những cảm xúc của Thất Tình để tránh tình trạng vô tình đóng vòng nghiệp lực chỉ vì một sự chấp chặt Tự Ái quá cao, cộng thêm với tánh xấu, sẽ không tránh khỏi việc gây tạo nghiệp lực.
Trong suốt 49 ngày đặc ân, nếu Vong Linh đem tấc dạ chân thành để Sám Hối, Ăn Năn, để Trì Chú, Niệm Phật, và nhất là thành tâm sửa đổi những Tánh Xấu, những Thói Hư, và đồng thời cũng vun bồi cho mình với nhiều Tánh Tốt, điều đó nói lên rằng, Vong Linh đã chuẩn bị hành trang cho mình thật kỹ lưỡng để trở lại cõi Ta Bà trong một Thân Xác Mới.
Với lần trở lại này, Vong Linh chẳng những "Mới" trong Thân Xác, mà ngay cả Thần Thức của Vong Linh cũng đã được cải thiện rất nhiều. Những hình ảnh nghiệp chướng trong Tâm thức của Thần Thức, tuy rằng không hoàn toàn xóa bỏ, nhưng cũng phai mờ dần; điều đó có nghĩa rằng lớp cặn cáu trong Vô Minh cũng được tẩy sạch phần nào. Cuộc đời của Thân Xác mới rồi đây cũng bớt nặng nề, và nhờ ở sự thâm nhập lời Pháp mà Thần Thức cũng hoán chuyển được một phần nào Tâm-Ý-Tánh.
Nhờ ở sự khắc cốt ghi tâm những Tánh Tốt mà Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ biết yêu thương người đồng loại của mình nhiều hơn, sẽ biết thế nào là chia sẻ, là tương trợ, là lòng thương người; sẽ dùng lời nhỏ nhẹ ôn hòa để đối xử với nhau thay vì phải quát tháo, to tiếng và sử dụng quyền uy. Đặc tánh của ÁI THA đưa tất cả mọi người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội xích lại gần nhau, kết thành một KHỐI thương yêu, chia sẻ và đoàn kết, sống với một bản chất hiền hậu và tương hòa. Dù cho mỗi Thân Xác Mới đều bị chi phối bởi nghiệp lực riêng, nhưng do cái căn bản THƯƠNG YÊU, Thân Xác Mới vẫn cảm thấy nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn vì đã hiểu được nguồn gốc của việc sai lầm của mình.
Áp dụng Ái Tha trong cuộc sống, cơ hội tạo nghiệp chướng do từ ở tánh xấu, ở thói hư sẽ dần dần bớt đi, một khối lớn người với nhiều tánh tốt sẽ tạo nên một màn chắn to lớn, ngăn chận tất cả những gì không hay, không tốt đẹp làm thiệt hại đến môi trường dung chứa cái khối người đó.
Muốn có được Thân Xác Mới, Thần Thức bắt buộc phải tìm cho được Cha và Mẹ. Cái vòng nghiệp lực chi phối Thần Thức và Cha Mẹ sẽ vô cùng là quan trọng đối với một Thân xác Mới. Không có Cha Mẹ, làm sao có sự ra đời của một Thần Thức trong thân xác mới? Để rồi từ đó mới kéo lần ra những mối tương quan nghiệp lực khác đến với Thân Xác Mới đó.
Vòng nghiệp lực giữa Cha Mẹ và Thần Thức của Thân Xác Mới định rất rõ ràng, ai là người Trả Nợ (tức là ở vai trò CON NỢ) và ai là người Đòi Nợ (tức là ở vai trò CHỦ NỢ). Điều này có nghĩa là:
Nếu đứa con là Chủ Nợ: Có thể rằng đứa bé sanh ra đời sẽ mang bệnh tật rất nhiều, khiến cho cha mẹ phải tốn hao tiền bạc để chạy chữa và tốn hao công sức để dưỡng nuôi. Cũng có khi đứa bé lớn lên khỏe mạnh bình thường, cha mẹ không tốn nhiều công sức để dưỡng nuôi dạy dỗ, nhưng, ở một giai đoạn nào đó của cuộc đời đứa bé (nay đã trưởng thành), một hành vi, một lỗi lầm của đứa con khiến liên lụy đến cha mẹ, đến anh chị em, đến dòng họ khiến phải bị "Diệt Tộc" hay phải bị "Thân Bại Danh Liệt".
Nếu đứa con là Con Nợ: Đứa bé sanh ra đời chẳng những dễ nuôi, mà còn lớn lẹ, dễ ăn dễ dạy, phụng sự, hiếu thảo với cha mẹ hết lòng. Đứa bé tuy còn nhỏ nhưng hoàn cảnh đẩy đưa, khiến cho đứa bé phải cáng đáng hết mọi chuyện trong nhà. Nếu gia cảnh nghèo khó thiếu hụt, cha mẹ đau ốm triền miên, phải chạy lo ăn từng bữa một, thì gánh nặng đó sẽ được đặt lên vai của đứa con Con Nợ này.
Trong cả 2 trường hợp này, dù là Chủ Nợ hay là Con Nợ, thì vòng nghiệp lực giữa Cha Mẹ và đứa con vẫn triển khai song song với Nghiệp Lực của chính bản thân của đứa con.
Đứa bé mới sanh ra đời mà đã mang nhiều tật bệnh, phải trải qua sự chạy chữa làm đau đớn thân xác, đôi khi đưa đến sự tật nguyền: đó chính là nghiệp lực riêng của đứa bé.
Cha Mẹ phải tốn hao tiền bạc để chạy chữa, tốn hao công sức để dưỡng nuôi dạy dỗ, nếu đứa bé phải bị tật nguyền suốt đời, Cha Mẹ cũng vẫn phải chăm sóc cho đến cuối đời của Cha Mẹ: đó chính là nghiệp lực giữa Cha Mẹ và đứa con, mà trong đó người trả nợ chính là Cha Mẹ.
Một hành vi, một lỗi lầm của đứa con khiến liên lụy đến cha mẹ, đến anh chị em, đến dòng họ khiến phải bị "Diệt Tộc" hay phải bị "Thân Bại Danh Liệt": đây quả thật là một nghiệp lực lớn lao và phức tạp, có liên quan đến rất nhiều người để đòi một món nợ to tát từ Thần Thức của đứa con.
Việc mà một đứa trẻ ở tuổi mới lớn gọi là "ăn chưa no lo chưa tới" phải quán xuyến cả việc gia đình, chạy ăn từng bữa, lo cho Cha Mẹ già bệnh tật, nằm một chỗ: đây chính là món nợ mà đứa con phải trả do ở những oan trái mà Thần Thức của đứa con đã gây tạo ra trong quá khứ với Thần Thức của Cha Mẹ ngày hôm nay.
Vong Linh đã được vạch rõ và phân tích để cho thấy rằng, những nghiệp lực mặt đối mặt, tức là những người Đòi Nợ hay Trả Nợ trực tiếp cho Thân Xác của Vong Linh gồm đa số là những người rất thân cận với mình, nào là cha là mẹ, là anh chị em, là bà con dòng họ, là chồng là vợ, là con cái của mình. Tất cả đã dính chặt với nhau qua sợi dây Tình Cảm, chính cái tình cảm mới lôi cuốn tất cả những nghiệp lực tụ về trung tâm điểm, đó chính là Thân Xác của Vong Linh.
Ngày còn sự sống, cái Thân Xác đó đã tiếp nhận biết bao nhiêu thăng trầm của Nghiệp Lực, có khi vui, có khi buồn, khi khóc hận, lúc đau thương, nhiều oán trách, nhiều ghét ghen.....Tất cả những cảm xúc đó đã hòa nhịp với những bước chân của Thất Tình để tạo nên sự điêu đứng cho Thân Xác của Vong Linh trong suốt cuộc đời ở cõi Ta Bà.
Sau 49 ngày đặc ân để tu tập, để sám hối, để chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh, và cũng để hiểu rõ và thâm nhập Lời Pháp giúp cho Vong Linh biết được một cách sâu sắc cái lý do vì sao tôi tạo tội? Vì sao tôi đã không ngừng gây nghiệp chướng? Thần Thức của Vong Linh sẽ được Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát đưa đi gặp Cha Mẹ sau khi đã kết đủ Nhân Duyên, để chuẩn bị cho việc trở lại cõi Ta Bà trong một Thân Xác Mới.
Vong Linh hãy lợi dụng thời gian 49 ngày đặc ân này để cố gắng sửa cho hết những Tánh Xấu của mình, vì chính những tánh xấu, những thói hư sẽ làm gia tăng sức công phá của những nghiệp lực mặt đối mặt, tức là những nghiệp lực bắt nguồn từ Ái Dục mà ra.
Vong Linh hãy nghiêm chỉnh nói lời phát nguyện sau đây:
Vong Linh (Tên họ... Pháp Danh...) xin phát nguyện trước các Đấng Từ Bi, con xin triệt tiêu hoàn toàn những Tánh Xấu sau đây: Tánh miệt thị - Tánh khinh chê - Tánh xem thường người yếu kém - Tánh ích kỷ, hẹp hòi, bỏn sẻn - Tánh bạc đãi người nghèo khó - Tánh lãnh đạm thờ ơ trước nỗi bất hạnh của người - Tánh bất nhân bất nghĩa.
Tánh bất hiếu - Tánh thiếu chung thủy - Tánh ăn chơi, rượu chè, cờ bạc (làm mất đi tư cách người Chồng) - Tánh phung phí, ăn chơi, chưng diện, bài bạc (làm mất đi tư cách người Vợ).
Con cũng xin nguyện khắc cốt ghi tâm những Tánh Tốt sau đây: Tánh hiếu thảo với Ông Bà, Cha Mẹ - Tánh thủy chung trong đạo vợ chồng - Sống có nhân có nghĩa - Biết thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ anh chị em, bà con dòng họ - Tánh tương trợ - Tánh chia sẻ - Tánh nói năng nhỏ nhẹ, hòa nhã - Tánh biết thương người.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt, Vong Linh hồi vị và hãy cố gắng chiêm nghiệm lại tất cả những tánh tốt lẫn tánh xấu để chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh cho tốt đẹp hơn. Khi trở lại làm Người, nhờ đó mà cuộc đời sẽ bớt đi thăng trầm, bớt đi phiền muộn, khó khăn.
TUẦN THẤT THỨ 2:
Ngày thứ 8:
Vong Linh đã hiểu qua thế nào là TỰ ÁI, tức là chữ Ái chỉ do một cá nhân thụ đắc mà thôi. Mỗi cá nhân đều có tự ái của riêng họ, không ai giống ai hết. Vì sao? Vì mỗi cá nhân có một nghiệp lực do chữ Ái tạo thành, của chính cá nhân đó. Cho nên mới có việc, cá nhân này có một Tự Ái rất cao, cá nhân kia có một Tự Ái thấp hơn, cá nhân nọ có Tự Ái rất thấp và cũng có cá nhân không thụ đắc bất cứ Tự Ái nào.
Có người thì muốn lúc nào cũng được vuốt ve, kẻ khác thì thích được người ta tán thán, ca tụng việc mình làm, cũng có người dửng dưng trước những lời khen hay chê của kẻ khác đối với mình.
Tự Ái biểu hiện tùy theo Tánh của mỗi người, và đó cũng chính là nguồn gốc làm cho Chúng Sanh đau khổ. Vì sao? Vì khi Tự Ái được thỏa mãn thì mình vui, mình được hả hê, nhưng nếu bị phẩm bình thì mình lại thấy Tự Ái bị va chạm nên đâm ra khó chịu, không vừa ý, bức rức.
Chẳng hạn như: Không được người khác thương yêu, mình sẽ cảm thấy tủi thân vô cùng. Nếu không được người khác minh bạch cho mình thì mình sẽ thấy đau khổ trong oan ức. Nếu bị chê bai, trách móc thì chắc chắn sẽ có sự tức tối khổ đau vì xấu hổ.
Cho nên, tự ái khiến cho Tâm chao động, Ý xấu khởi sanh và Tánh trở nên lẫy lừng. Do đó, nó là đầu mối nảy sinh ra tương quan nghiệp lực với kẻ khác.
Trong cái tương quan giữa 2 người hay nhiều người, nếu tự ái của mỗi người đều bị va chạm, tức khắc vòng nghiệp lực giữa 2 hay nhiều người sẽ phát sinh. Sự va chạm Tự Ái là một cơ hội để Tâm - Ý - Tánh cùng khởi phát và đóng Vòng Nghiệp Lực.
Đầu tiên, Tự Ái chỉ tác động trên từng cá nhân một, nhưng khi có sự va chạm giữa tự ái của cá nhân này với cá nhân kia thì Tự Ái sẽ trở thành đầu mối khiến cho Tham-Sân-Si của cá nhân bùng dậy, khi đó Tánh, Ý không lành khởi sinh, cá nhân đó đã tạo nghiệp lực với cá nhân khác từ lúc nào không hay.
Do đó, muốn diệt Tham - Sân - Si cần phải diệt Tự Ái. Khi diệt được tự ái rồi thì sẽ tránh được tình trạng "chạm tự ái" khi đối xử với nhau, sẽ không làm cho tình huống trở nên trầm trọng do ở việc nghĩ rằng người khác đã làm tổn mình. Nếu không có Tự Ái thì lấy gì Ý khởi sinh? Ý không khởi sinh thì Tâm sẽ được Bình, khi Tâm đã Bình thì nghiệp sẽ không thể tạo ra.
Mỗi Chúng Sanh đều có vô số nghiệp chướng từ vô thỉ kiếp, nhưng, nghiệp chướng từ 2 chữ Tự Ái rất là quan trọng, nó tiềm ẩn trong mỗi cá nhân. Nó chính là nghiệp chướng "NỀN TẢNG", tại sao? Vì nó có sẵn từ khi một Chúng Sanh mới chào đời. Nghiệp chướng này mang tên Tự Ái, và Tự Ái của mỗi Chúng Sanh đều có một tính chất khác nhau. Khi một Chúng Sanh lớn lần theo năm tháng thì tự ái này cũng lớn lần theo, và đặc biệt là không bao giờ thay đổi tính chất. Tự Ái này chi phối mỗi cá nhân về sự suy tư, về quan niệm sống, về cách đối xử, và còn rất...rất là nhiều những phương diện khác. Thậm chí nó còn ảnh hưởng đến tánh tình của một cá nhân. Cho nên, nó vô cùng là quan trọng! Có thể nói rằng, các nghiệp chướng khác khi ồ ạt tiến đến, đều phải đi qua nghiệp chướng Nền Tảng này.
Tất cả những Tánh Xấu đều bị chi phối rất nhiều bởi Tự Ái của chính cá nhân đó. Tánh càng dữ tợn, Tánh càng lẫy lừng, đều chịu ảnh hưởng của nghiệp chướng mang tên Tự Ái. Nó lấy danh nghĩa Tự Ái (tức là thương bản thân mình) để đạt cho được hết tất cả những gì mình Mong Muốn, tất cả những gì làm thỏa mãn Dục Vọng của mình.
Đây là một nghiệp chướng vô cùng quan trọng vì nó nằm sâu trong tâm tư của mình, cho nên ít ai để ý đến nó. Vì vậy, khi một sự việc nào đó xảy tới cho mình mà chạm vào Tự Ái, tức khắc phản ứng sẽ xảy ra ngay.
Cho nên, bắt buộc phải sửa Tánh của mình, tức là phải loại ra hết những Tánh Xấu, chỉ thuần giữ lại những Tánh Tốt. Khi loại ra những tánh xấu, chắc chắn rằng sẽ có một sự va chạm nặng nề đến Tự Ái, vì đa số những tánh xấu đều có tương quan chặt chẽ với Tự Ái.
Khi những Tánh xấu đã được loại bỏ rồi thì tức khắc tính chất của Tự Ái cũng được thay đổi. Lúc đó Tự Ái sẽ đương nhiên biến dạng trở thành ra là Từ Bi!
Phải nhớ một điều rằng, chữ Ái trong Tự Ái lúc nào cũng đi kèm với chữ DỤC, với sự MONG CẦU, như bóng với hình, không tách rời ra được, do đó mới làm phát sinh những Tánh không tốt, vô cùng tai hại. Khi đã quyết tâm chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh của mình, quyết tâm trau giồi những Tánh Tốt để làm hành trang trở lại cõi Ta Bà, mong muốn có được một cuộc đời MỚI tốt đẹp hơn với Lành nhiều Rủi ít, thì phải hiên ngang, can đảm chặt đứt hết tất cả những Tánh xấu, những thói hư không làm LỢI cho người lẫn cho mình.
Vong Linh hãy nói lời Phát Nguyện sau đây:
Con xin phát nguyện trước các Đấng Từ Bi, triệt tiêu tất cả những Tánh xấu, trong đó bao gồm luôn cái Tự Ái đã bao phen làm cho cuộc đời vừa qua của con gặp nhiều nỗi thăng trầm, và cứ luôn chìm đắm trong Biển Trầm Luân. Con quyết tâm tiêu diệt cái Tự Ái để khi trở lại kiếp Người, con sẽ bớt gây tạo nghiệp lực, có được một cuộc đời An Bình, Tốt Đẹp để có thể hướng về một cảnh giới cao hơn trong kiếp vị lai.
Ngày thứ 9:
Trong cuộc đời vừa qua của Vong Linh, những cảnh huống, những đau khổ, những thương tâm, máu lệ ngập tràn, tang thương biến đổi.... tất cả đều xoay quanh ở 3 món Phiền Não là THAM - SÂN - SI, gọi chung là TAM ĐỘC, và chính 3 món phiền não này đã lôi kéo Chúng Sanh trôi lăn trong Vòng Sanh Tử.
Tham - Sân - Si được ví như là những cái rễ rất lớn, mạnh mẽ và dai dẳng, khó chặt, khó diệt trong nhất thời. Có rất nhiều vấn đề thật là vi tế bao chung quanh 3 món phiền não này, chúng nhỏ nhặt khiến cho mọi Chúng Sanh không để ý đến, nhưng chúng lại là đầu mối có thể tạo ra nhiều điều lớn lao. Và khi điều lớn lao đã trở thành hiện thực rồi thì muốn hủy diệt, không phải là chuyện dễ làm!
Hôm nay Vong Linh sẽ có dịp để hiểu biết một cách tận tường hơn về Tam Độc THAM.
Tham một tình cảm, tham một lời nhẹ nhàng, tham một cử chỉ dịu dàng, tham học hỏi, tham phô trương, tham đem tất cả tài năng của mình ra để trình diễn cho thiên hạ... Dù dưới một dạng thức nào, đó cũng vẫn là THAM.
Có thể nói một cách khẳng định rằng, Tham là một cái tánh mà gần như Chúng Sanh nào cũng mắc phải.
Không tham không là Chúng Sanh! Từ tham tiền đến tham tình, đến tham dục, đến tham sắc, đến tham quyền...., đến tham những điều rất nhỏ nhặt. Có người tham cao, có người tham thấp, có người tham ít, có kẻ tham nhiều, nhưng tựu trung tất cả cũng vẫn là THAM.
Dù cho đó là một đứa bé mới chào đời, tập khí Tham vẫn hiện rõ ràng trong cử chỉ của đứa bé. Có những đứa bé khi đói bụng khát sữa đã khóc ré, có khi khóc ngất rất là dữ dội. Cũng có những đứa bé tuy khát sữa, nhưng diễn tả sự đói bụng của nó bằng một cử chỉ nhẹ nhàng hơn.
Nhìn những đứa bé tập tễnh mới biết đi, đang chơi đồ chơi với nhau, sẽ cảm nhận ngay độ tham lam của từng đứa một. Đứa bé càng lớn, lòng tham cũng sẽ tăng trưởng theo sức vóc, theo hoàn cảnh, theo sự hiểu biết, theo cuộc sống của đứa bé đó.
Kẻ có nhiều quyền uy thì tham những điều cao hơn, và cái tham đó đôi khi lại đụng chạm vào sanh mạng của kẻ khác. Người giàu sang biểu lộ tánh tham của mình dưới dạng thức của một kẻ có trình độ. Người nghèo khó biểu lộ tánh tham của mình qua hành động rất là lộ liễu. Do đó, tùy hoàn cảnh, tùy môi trường, tùy địa vị thấp hèn, cao sang hay quyền uy mà cấp bậc của tánh tham sẽ hoàn toàn khác biệt.
Bao nhiêu sóng gió trong cuộc đời, bao nhiêu điều mất trật tự trong xã hội, bao nhiêu điều hỗn loạn trong một Quốc Gia cũng đều bắt nguồn từ chữ THAM.
Do đó, đầu mối của những đau khổ trên cuộc đời bắt nguồn từ tánh THAM.
Tuy nhiên, có những cái tham có thể chấp nhận được, và có những cái tham không thể chấp nhận được.
Tham giúp đỡ cho Chúng Sanh là một cái tham có thể chấp nhận được vì đó là hoàn toàn cho lợi lạc của Chúng Sanh, nhưng phải rất là cẩn thận đừng để sự giúp đỡ đó vấy vào Nghiệp Lực của kẻ được giúp đỡ, khi đó thì sự giúp đỡ sẽ chỉ là hoài công thôi, ngoài ra còn có thể mang thêm Sân hận.
Một sự giúp đỡ phải hoàn toàn không vụ lợi, không vì bất cứ một lý do nào ngoại trừ 2 chữ TỪ BI. Từ tham sẽ kéo ra sân hận, rồi sau đó, khi sân hận bộc phát thì nghiệp lực tức khắc hiện hữu ngay. Cho nên, những điều mình tham mà đem lại lợi lạc, đem điều ích lợi cho Chúng Sanh, thì cái tham đó mới không là đầu mối để tạo ra sân hận.
Nếu tham đem sự hiểu biết, đem kiến thức của mình, đem những tư tưởng tốt đẹp để chia sẻ cho Chúng Sanh, nhưng người ta từ chối, không thích nhận thì cũng đừng nên nài ép vì vô tình mình tạo sân hận đối với người được chia sẻ.
Tham là hình thức biểu hiện việc MUỐN.
Tôi muốn làm việc này, tôi muốn hoàn tất việc kia, nhưng cái Muốn đó có được sự hưởng ứng của người mà tôi muốn cho hay không? Có nhiều việc mà người muốn tưởng rằng điều đó tốt, điều đó đẹp, điều đó mang lại lợi ích, nhưng thật ra nó lại không tốt, không đẹp, không lợi ích đối với người khác.
Vì vậy, đừng quá chủ quan, phải cẩn thận rất nhiều trong việc hành xử cái Muốn của mình và phải biết giới hạn cái Muốn, càng muốn nhiều, tánh tham càng bộc phát khiến cho sân hận có dịp tung hoành nhiều và nghiệp chướng càng lên cao, Vòng Nghiệp Lực liên tục hình thành.
Tập khí Tham đi từ kiếp này qua kiếp khác, liên tục không chấm dứt. Chỉ khi nào "ngộ" được cái Tham thì cái Tham mới có thể chấm dứt được. Còn một khi không ngộ được cái Tham thì dù cho ai nói gì cũng vẫn không thể nào chấm dứt được.
Nguồn gốc của Tham chính là sự Mong Cầu, nó có một mối tương quan rất là chặt chẽ với đời sống vật chất; nhu cầu vật chất càng lên cao, sự mong cầu càng nhiều, tánh Tham càng tăng cường độ.
Do đó, cuộc sống càng giản dị, sự tham lam càng ít đi, cuộc đời sẽ bớt sóng gió!
Chữ THAM dính liền với chữ MUỐN, không khác gì đeo đá nặng ngàn cân. Nếu bỏ bớt đi tảng đá Muốn này xuống, thì chữ Tham sẽ không còn nặng nề nữa, việc chỉnh sửa cũng dễ dàng hơn.
Vong Linh đã hiểu rất rõ ràng cái Tánh Tham tác động như thế nào vào cuộc đời của một Chúng Sanh.
Từ bấy lâu nay, ở cuộc đời của kiếp mới vừa qua, cái Thân Xác của Vong Linh, từ lúc còn trẻ cho tới lúc già nua, đã hứng chịu biết bao trăm cay nghìn đắng. Có đôi lúc máu lệ ngập tràn, nỗi xót xa dâng đầy, Thân Xác chỉ muốn chết đi để phủi tay, để thoát khỏi cái nỗi vày vò, đau đớn, nhưng rồi, chỉ cần một vài cái Muốn được thỏa mãn là Thân Xác xem như "hồi sinh", và tiếp tục kéo lê cuộc đời của mình.
Nền văn minh vật chất càng lên cao, nhu cầu bỗng trở nên cấp bách, Chúng Sanh gia tăng độ Muốn và đồng thời mặt mũi tối tăm, không còn nhận ra cái túi Tham nặng trĩu của mình đang lôi kéo mình dần dần chìm sâu dưới biển Dục Vọng.
Vong Linh có dám bảo rằng, tôi chưa hề bao giờ Tham hay không? Vong Linh cũng đã biết rằng Tham là một tập khí từ nhiều đời nhiều kiếp, từ trong Quá Khứ, có thể rằng Vong Linh chưa từng được dẫn dắt, được nắm tay chỉ thẳng vào chữ Tham để nhận diện nó, cũng như chưa từng được ai đó nhắc nhở về sự xấu xa, nguy hiểm của chữ Tham, chỉ biết rằng, càng tham, càng vơ vét, càng gom thu về cho mình càng nhiều càng tốt, con người sẽ càng hả hê, càng thích thú.
Từ ở Tánh Tham đã nảy sinh ra vô số là tánh xấu, nào là Tánh ăn cắp - Tánh cướp giựt - Tánh lường gạt - Tánh bất lương - Tánh sang đoạt - Tánh sợ hãi. Ngoài ra, tánh tham lam còn có thể dụ một người vào Nghiệp Sát rất dễ dàng.
Ngày hôm nay Vong Linh đã được hướng dẫn để biết rằng Tánh Tham vô cùng là xấu ác. Vì tánh Tham mà Chúng Sanh cứ trôi lăn trong vòng Sanh Tử, cứ bị quấn chặt trong vòng Nghiệp Lực dày đặc, cuộc đời luôn gặp cảnh não lòng.
Nhận diện được cái Tánh Tham rồi, Vong Linh nên nhân cơ hội này mà thành tâm thành ý để cố gắng triệt tiêu nó, hay ít nhất cũng là biết hạn chế cái Muốn của mình, tuyệt đối không chiều theo Tự Ái để thỏa mãn cái Muốn, có được như thế thì mới có thể làm giảm bớt đi cường độ của chữ Tham, giúp cho Thân Xác Mới thoát được một phần nào tầm ảnh hưởng cực kỳ xấu của chữ THAM.
Vong Linh hãy nói lời Phát Nguyện sau đây:
Con xin phát nguyện trước các Đấng Từ Bi, can đảm triệt tiêu Tánh Tham Lam cùng với những Tánh xấu phát sinh ra từ ở Tánh Tham, như: Tánh ăn cắp - Tánh cướp giựt - Tánh lường gạt - Tánh bất lương - Tánh sang đoạt - Tánh sợ hãi.
Tánh Tham Lam đã theo con từ nhiều đời nhiều kiếp, vì ngu muội, si mê nên con đã không nhận chân ra được nó, khiến cho nó mặc sức vẫy vùng, quậy phá nát cuộc đời ở mỗi kiếp của con.
Nay con quyết tâm loại trừ cái Tánh Tham Lam này ra khỏi toàn bộ Tánh Tình của con, để con sống có ý nghĩa hơn ở cuộc đời kế tiếp với những cái Muốn cao thượng hơn và Từ Bi hơn.
Ngày thứ 10:
Vong Linh đã biết qua về Tam Độc THAM. Hôm nay Vong Linh sẽ có dịp tìm hiểu về Tam Độc SÂN.
Đúng nghĩa của Sân chính là ngọn lửa bùng lên. Điều đáng ghi nhớ là không bao giờ có cái gì có thể dập tắt được ngọn lửa này. Một khi nó đã bùng lên thì tùy cường độ mà nó bùng cao hay bùng thấp, và khi ngọn lửa hạ xuống thật thấp thì nó cũng sẽ trở lại hình dạng của một đốm lửa, chớ không bao giờ tắt hẳn, và đốm lửa đó sẵn sàng bùng lên bất cứ lúc nào.
Dù rằng chỉ là một đốm lửa không bùng lên, nhưng nó vẫn mang một hình thái của Ngọn Lửa, chỉ cần một giọt dầu thật nhỏ thôi hay bất cứ một vật bắt cháy nào cho vào đốm lửa, tức khắc đốm lửa đó sẽ trở thành ngọn lửa cháy bùng ngay!
Vong Linh hãy hồi tưởng lại cuộc đời của mình trong kiếp mới vừa qua. Hằng ngày, Thân Xác của Vong Linh phải đối phó với biết bao nhiêu cảnh huống, biết bao nhiêu khó khăn, biết bao nhiêu điều lao tâm lao lực, tất cả đã ảnh hưởng vô cùng lớn lao đến sự giao tế, sự tiếp xúc với người Đồng Loại của mình.
Một lời nói, một cử chỉ, một hành động, một quyết định không được cân nhắc, không được nghĩ suy chính chắn, quá vội vàng hay tỏ ra bất cần, thiếu lễ độ...sẽ là những vật bắt cháy rất dễ dàng, khơi mào cho đốm lửa bùng lên, tạo sự Sân Hận cho cả đôi bên và dễ dàng đóng vòng Nghiệp Lực.
Một khi quyền lợi không cân bằng, sự bất công được ghi nhận, sự miệt thị cá nhân xảy ra, đương nhiên Tự Ái bị va chạm. Khi Tự Ái bùng lên, tức khắc sẽ va chạm vào THÂN, từ Thân tiến qua KHẨU chỉ trong một búng tay, Khẩu chính là phát ngôn nhân của Tâm, mà Tâm thì dính liền với Ý, vì vậy mà chính Tự Ái đã làm cho đốm lửa có cơ hội bùng cháy lên, được sự tiếp sức của Thân - Khẩu - Ý, đốm lửa đó có thể bốc lên tới ngút trời xanh được.
Do đó có thể nói rằng, Tự Ái của một người chính là đầu mối của đốm lửa Sân với sự tiếp sức của Thân - Khẩu - Ý.
Vong Linh đã hiểu qua tầm quan trọng của Tự Ái, với danh nghĩa là "Nghiệp Chướng Nền Tảng", một khi phối hợp với Thất Tình, với Tâm - Ý - Tánh xấu ác thì sẽ khiến bùng lên biết bao nhiêu ngọn lửa Sân, làm khóa chốt, đóng vô số Vòng Nghiệp Lực.
Do đó, Thân Xác của Vong Linh trong kiếp mới vừa qua, đã gây tạo nên biết bao nhiêu Nghiệp Lực cũng chỉ vì 2 chữ Tự Ái lồng trong chữ SÂN, và chính ngọn lửa này cũng đã thiêu đốt không nương tay hàng hàng lớp lớp Chúng Sanh, cho đến khi nào Chúng Sanh nhận chân ra được nguồn gốc của nghiệp lực, của tất cả những gì đem đến sự bất lợi cho một đời người, khiến cho người đó phải chịu cảnh trầm luân trong vòng Sanh Tử Luân Hồi.
Tầm tác hại của ngọn lửa Sân không phải chỉ giới hạn trong khuôn khổ cá nhân, mà nó còn lan rộng ra đến gia đình, đến bà con dòng họ, đến trật tự xã hội, cũng như luôn cả một quốc gia, một chủng tộc.
Kiểm soát ngọn lửa Sân, ngăn chận ngọn lửa Sân, không gì HAY HƠN bằng việc lúc nào cũng kềm chế được cái Tự Ái của mình, không để cho nó được tự do bùng phát. Muốn được như vậy, phải tập giữ sự Bình Tĩnh trong Tâm - Ý - Tánh của mình; Tâm luôn vọng động, bồn chồn, Ý dung chứa nhiều tư tưởng sái quấy, không trong sáng, Tánh luôn háo thắng, gian manh, thủ lợi, tất cả sẽ khơi dậy Tự Ái để làm ngòi cho ngọn lửa Sân nổ bùng lên.
Ngoài ra, còn phải nên tập Lắng Nghe. Đừng quá vội vàng trong lời nói, càng phản ứng nhanh, càng dễ bị hố. Lắng nghe để hiểu được tâm tư người đối diện, để hiểu vấn đề được rõ ràng hơn, nhờ đó, những việc cần giải quyết sẽ không khó khăn, bao nhiêu gút mắt được nhanh chóng tháo gỡ. Khi đã có được sự cảm thông với nhau thì chắc chắn Tự Ái của đôi bên sẽ không bị va chạm, như vậy tránh được lửa Sân bùng lên, làm thiêu hủy hết mọi dự tính, mọi sắp xếp, hay một công trình nào đó.
Thân Xác của Vong Linh trong kiếp mới vừa qua đã chịu khổ sở trăm bề, chịu nhiều nỗi nhọc nhằn, đắng cay cũng chỉ vì ngọn lửa Sân; nghiệp chướng cứ liên tục tạo ra, khiến cho nợ cũ lẫn nợ mới cứ chất chồng cao như núi. Nghiệp Lực lôi kéo Thần Thức của Vong Linh trôi lăn mãi trong vòng Sanh Tử Luân Hồi.
Vong Linh giờ đã thấu hiểu vì sao ngọn lửa Sân bùng lên, do đó, hãy cố gắng triệt tiêu cái Tự Ái của mình, hãy phát nguyện lúc nào cũng kiểm soát cái Tự Ái vô cùng là chặt chẽ, luôn luôn kiểm Tâm - kiểm Ý - kiểm Tánh của mình, đừng để cho chúng nó hợp sức nhau lại mà khơi mào cho ngọn lửa Sân.
Lắng nghe là một Tánh tốt giúp ích rất nhiều cho sự tư duy, sự phán đoán, sự lựa lọc những tư tưởng, nhờ đó mà tránh được điều đáng tiếc có thể xảy ra, tạo cơ hội cho việc đóng vòng nghiệp lực rất dễ dàng với bất cứ ai.
Vong Linh hãy thành tâm phát nguyện những lời đã ghi trên.
Ngày thứ 11:
Tất cả Chúng Sanh, từ lúc mới chào đời cho đến khi lìa đời, không có một người nào có thể tránh khỏi Tam Độc. Vui vì tam độc, buồn vì tam độc, cười vì tam độc, khóc hận cũng vì tam độc.
Trong Tam Độc Tham-Sân-Si, Vong Linh đã hiểu được tam độc Tham tác động như thế nào vào cuộc đời của mình ở kiếp mới vừa qua; Vong Linh cũng đã hình dung được ngọn lửa của tam độc Sân phá tác Tâm-Ý-Tánh của mình ra làm sao rồi; hôm nay, Vong Linh sẽ được biết đến cái Độc thứ 3, đó chính là tam độc SI.
Tuy rằng cái Độc này đứng vào hàng thứ 3, nhưng cường độ "Độc Hại" của nó thì Tham lẫn Sân không thể nào sánh bằng. Mọi Chúng Sanh từ Người cho tới Thú Vật đều không thoát khỏi cái tầm ảnh hưởng của chữ SI.
Tam độc Si vô cùng độc hại vì nó có khả năng làm cho một Chúng Sanh từ kiếp Người trở xuống hàng Súc Sanh một cách dễ dàng. Một khi đã là súc sanh rồi thì cơ may muốn thoát kiếp súc sanh cũng không phải dễ, vì Thần Thức trong súc sanh bị Si cho nên tối tăm, không còn biết đường nào để trở lại kiếp Người. Bên trong cái thân xác thú chỉ toàn là một màu tối đen.
Tại sao một Thần Thức lại bị đọa vào súc sanh? Chính là vì Thần Thức đó đã đắm chìm vào cái SI. Tại sao Thần Thức đó đã đắm chìm vào cái Si? Điều đó có nghĩa là Tâm của Thần Thức bị mê muội, tối mò mò, không ánh sáng, làm những điều không đúng, như một người quờ quạng trong bóng tối.
Cái gì đã khiến cho người đó phải rơi vào cái vực tối tăm như vậy? Đó chính là lòng THAM! Càng tham luyến chừng nào thì càng dễ dàng bước vào cái Si chừng nấy! Vì tham cho nên không bao giờ từ bỏ làm những điều không tốt đẹp, càng ngày Trí Huệ càng lu mờ, không khác ngọn đèn leo lét, tâm trí mờ ảo, để rồi cuối cùng bước vào vực thẳm tối tăm.
Khi một Thần Thức, với một tâm trí mù mờ tối đen, bước vào thân xác của một con vật, không khác gì bước vào cái địa ngục đối với Thần Thức đó, chung quanh Thần Thức chỉ là một màu tối đen, dày đặc, chỉ có Thần Thức đó với con vật đó mà thôi. Và một con vật chỉ dung chứa một Thần Thức mà thôi!
Nếu con vật đó còn chút duyên may thì sẽ gặp được Thiện Tri Thức dẫn dắt và giúp đỡ để phá cái Si. Như vậy, khi đã mãn thân súc vật rồi, Thần Thức có được một chút ánh sáng Trí Huệ để có thể đi về một cõi nào đó tùy ở Nghiệp kế tiếp của mình.
Cuộc đời của một súc sanh đối với Người thì ngắn ngủi, nhưng phải hiểu rằng, đối với một súc sanh, một ngày qua của loài Người bằng không biết bao nhiêu năm của hàng súc sanh. Điều đó nói lên rằng: hàng súc sanh đã chịu trầm luân khổ sở không biết bao nhiêu mà nói!
Súc sanh đã tô điểm cho vẻ đẹp của thiên nhiên, đã gợi cho Chúng Sanh nhiều cảm hứng, nhiều khoái cảm, nhưng Chúng Sanh có biết đâu rằng, trong mỗi một súc sanh, chữ Si đã phá nát cả tâm trí của nó, không còn có cơ hội để có thể nghĩ ngợi gì hơn nữa. Thỉnh thoảng lắm mới có một súc sanh tỏ ra hơi khôn ngoan, nhưng cái khôn ngoan đó cũng chỉ là cái khôn ngoan của loài súc sanh, không thể nào là cái khôn ngoan của loài Người được. Từng giây đau khổ, từng phút đau khổ, từng giờ đau khổ diễn ra trong tâm tư của một súc sanh, do đó mà một ngày của con người kéo dài như hàng năm vô tận của một súc sanh.
Bên trong của súc sanh toàn là tối đen, mù mịt, nó không biết gì hết ngoài việc kiếm sống, kiếm được miếng ăn. Chỉ còn sót lại trong nó một điều duy nhất là "Sự Sợ Hãi"; nó sợ những kẻ mạnh hơn nó, lớn hơn nó, dữ hơn nó sẽ tiêu diệt nó, đó là do từ ở Tánh "tham sống sợ chết" của Chúng Sanh.
Sự phá tác của Si trong loài súc sanh đã như thế, còn đối với loài Người thì cái tầm ảnh hưởng của Si sẽ như thế nào?
Đối với Người, SI luôn luôn đi kèm với một từ ngữ khác, đó là chữ MÊ. Vì mê cho nên mù quáng, vì mê cho nên không còn nhìn thấy, không còn phân biệt được phải trái, không còn nghe được những gì trung thực, cho nên hoàn toàn mù mịt tối tăm để rồi rơi vào hố sâu vực thẳm.
Kẻ mê Tiền thì rơi vào hố sâu vực thẳm của việc mê tiền - Kẻ mê Sắc Dục thì rơi vào hố sâu vực thẳm của sắc dục - Kẻ mê Quyền Tước thì rơi vào hố sâu vực thẳm của quyền tước.
Trên thế gian này, cứ có bao nhiêu cái Mê là sẽ có bao nhiêu loại Si. Càng mê nhiều thì càng si nhiều. Càng si nhiều thì càng đắm nhiều, cho nên đánh mất lương tri, căn thức không còn và mặc tình cho Nghiệp Lực dấy lên.
Một khi đã mê rồi, đã đắm rồi thì không còn nghe lời khuyên bảo nữa. Người đó như ngây như dại và như bị sức hút của nam châm, không thể nào vùng vẫy được. Vì vậy, làm những điều sai trái là một việc không thể nào tránh được. Si dính liền với Mê, mà một khi đã mê rồi thì lửa Sân, lửa Hận tha hồ bốc lên vì không còn biết phân biệt phải trái nữa.
Si là ngu đần, là không còn phân biệt được phải trái, chánh tà, đúng sai. Người si mất đi căn thức, không dùng tâm thức của mình để phân biệt được hết tất cả những sự việc xảy ra trước mắt mình, họ chỉ có một điều duy nhất mà thôi, đó là MÊ, là làm Nô Lệ cho cái gì mà mình mong muốn.
Kẻ mê Sắc Dục thì làm đủ mọi cách để chiếm cho được người mình ưa thích, tức là đã chiếm đoạt kẻ khác! Sau đó thì đưa lần đến việc hủy hoại thân thể mình, do vì mê sắc dục cho nên đắm chìm trong sắc dục. Từng ngày qua, hằng giờ, hằng phút, hằng giây, không cần biết đến sức khỏe của mình, không cần biết đến thời giờ của mình, không cần biết đến tâm tư của mình, và ngay cả đến những gì thuộc chánh, tà cũng vẫn không phân biệt được.
Rồi thì sắc dục còn dính liền với những thứ tạo cho mình một cảm giác phiêu phiêu, phưởng phưởng. Vừa đắm chìm trong sắc dục, vừa thả hồn theo mây khói, thật là không có gì hơn! Đến khi tỉnh lại thì hỡi ơi! Mình chỉ còn là một Linh Hồn mà thôi, vì trong lúc cơn say ma túy lên đến tột cùng, cộng thêm với những kích thích sắc dục tột độ, mình đã không còn điều khiển được Tâm Thức của mình, để cuối cùng rồi thì mình tự làm hại lấy mình và đem đến cái chết cho bản thân mình.
Si lúc nào cũng dính chặt vào Mê như bóng với hình, không rời xa nửa bước, Chính cái Mê mới thúc đẩy để phát sinh ra cái Si, và chính cái Mê mới làm phá nát Tâm Thức của một người, để cho căn thức không còn hoạt động được nữa, không còn phân biệt được cái gì hết, khiến cho một Người ở cảnh giới NGƯỜI phải bước vào cảnh giới của Súc Sanh.
Đầu mối của Si là Mê.
Từ kiếp Người bước qua kiếp Súc Sanh cũng chỉ vì Si. Do đó phải thận trọng rất nhiều. Đừng bao giờ để rơi vào chữ Mê. HỐ sâu vực thẳm của Mê thăm thẳm không có đáy, cho nên bước vào Mê rồi thì thấy rằng, việc mình có thể từ kiếp Người bước qua kiếp Thú không bao xa đâu.
Như Vong Linh đã biết đó, càng Mê đắm nhiều chừng nào thì càng Si, càng ngây dại nhiều chừng nấy, cái cơ hội bị đọa vào Súc Sanh chỉ là một cái búng tay. Đó là chuyện xảy ra khi không còn Thân xác, tức là sau cái Chết, sự Si Mê dẫn dắt Thần Thức của Vong Linh tiến vào cái Địa Ngục Súc Sanh.
Lúc còn hơi thở, còn sự sống, Chúng Sanh đắm chìm trong bất cứ cái Mê nào cũng đều dẫn dắt đến sự triển khai Tam Độc Tham-Sân-Si.
Mê Tiền tức là Tham tiền, là lệ thuộc vào đồng tiền. Muốn có tiền, mọi thủ đoạn được tung ra, không cần biết hợp pháp hay bất hợp pháp. Ai ngăn cản, ai khuyên bảo sẽ phải nhận chịu những hành vi ném đá dấu tay, gây tạo nhiều phiền lụy, nhiều đau đớn cho người đó, Sân Hận khởi lên, bao nhiêu Nghiệp Lực được đóng vòng.
Sự mê tiền khiến cho con người dễ trở thành kẻ bất nhân bất nghĩa, mất hẳn tình Người, đạo đức không còn, đánh mất tình bạn, hủy diệt hạnh phúc gia đình, dứt tình huynh đệ, cắt bỏ thân tình dòng họ. Cũng vì tiền mà phải mắc vòng lao lý, sống cảnh tù đày.
Mê Xa Hoa Vật Chất, tức là Tham thỏa mãn những cái Muốn của mình. Văn minh càng cao tột, khoa học kỹ thuật càng tiến triển, con người càng chạy đua theo đời sống vật chất. Khi còn nhỏ thì có những ham muốn của cỡ nhỏ, tuổi càng nhiều, ham muốn càng lên cao.
Trong những ham muốn, có cái thỏa đáng được, có cái không thỏa đáng được, có cái cần thiết, có cái không cần thiết cho cuộc sống. Nếu cứ luôn chạy theo những ham muốn không đem lại bất cứ một ích lợi nào cho cuộc sống, không sớm thì muộn sẽ rơi vào bẫy sập của những ham muốn đó.
Miệt mài với con bài, với những cuộc đỏ đen thâu canh suốt sáng thì việc tán gia bại sản, trở thành kẻ vô gia cư, lang thang đầu đường xó chợ là điều không ngạc nhiên.
Say mê ma túy, lấy việc hút sách làm kim chỉ nam cho cuộc đời mình, nếu có phải trở thành một kẻ cướp giựt, lừa đảo thiên hạ, hoặc phải đi xin từng thức ăn thừa, đó là cái giá mà mình phải trả.
Thích cặp bè, cặp bạn, vui chơi, đàn đúm, ăn nhậu, nhảy nhót, sống cuộc đời thác loạn, không nghĩ đến tương lai, bất cần hiện tại, chắc chắn rằng không sao tránh khỏi phải lụy vào những điều phạm pháp như: ăn cắp, cướp giựt, nghiện ngập, làm mất trật tự xã hội và càng nghiêm trọng hơn, chính là việc sát hại hay gây thương tích cho kẻ khác.
Khi còn sống thì tự mình dìm cuộc đời xuống bùn đen. Khi không còn trên cõi đời nữa thì Thần Thức của Vong Linh đó phải trải qua những ngày tháng, những năm tháng khổ sầu, không lối thoát trong cái địa ngục tối tăm của một súc sanh.
Vong Linh đã nhận ra những tai hại vô cùng cực của Tam Độc Tham-Sân-Si. Hãy thành tâm nói lời phát nguyện như sau đây:
Vong Linh (Tên họ...Pháp Danh…) xin thành tâm phát nguyện trước các Đấng Từ Bi, sẽ khắc ghi vào trong Tâm Thức việc gạn lọc, cũng như luôn luôn cân nhắc những cái MUỐN để cho Tánh THAM không có cơ hội bộc phát mạnh mẽ, có thể mang đến nhiều khổ đau cho cuộc sống.
Con cũng xin khắc cốt ghi tâm triệt tiêu cái Tự Ái, để cho ngọn lửa Sân không có dịp bùng lên thiêu đốt Tâm Tư của con, và có khi cả chính Thân Huệ Mạng của con cũng bị thiêu hủy vì ngọn lửa Sân đó.
Con cũng xin nguyền tránh xa những MÊ ĐẮM của Dục Vọng, của Vật Chất để không bị vướng vào sự NGU SI Đần Độn, có thể đưa đến việc đọa đày vào thân xác của Súc Sanh.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt. Vong Linh hồi vị, hãy cố gắng tư duy và khắc ghi lời Pháp vào Tâm Thức.
Ngày thứ 12:
Khi Vong Linh còn tại thế, với Thân Xác Người, Vong Linh cũng đã hiểu rằng, sống chung với mình còn có những kẻ giàu sang, quyền thế, còn có những người thuộc giới trung lưu, bên cạnh đó cũng có không ít những người nghèo cùng, khốn khổ.
Có thể ở vào một giai đoạn nào đó, khi trong xã hội có quá nhiều người nghèo khó, Vong Linh sẽ cho rằng, đây là bất công của Xã Hội, người giàu có thì được ưu đãi, còn người bần hàn thì bị bỏ rơi và cố tình bị quên đi, do đó mà người giàu thì càng lúc càng giàu thêm, còn người nghèo nàn thì càng lúc càng đói khổ, cạn kiệt.
Đây có thật sự là bất công của xã hội chăng?
Hãy nhìn một đứa bé sanh ra đời trong một gia đình nghèo khó, ngay từ lúc còn thơ dại đã là một đứa bé èo uột, xanh xao vì thiếu dinh dưỡng. Đứa bé lớn lên với một thân thể ốm gầy, bữa no bữa đói, khó lòng bảo đảm cho một tinh thần minh mẫn được.
Để kiếm sống cho bản thân mình, cho cha mẹ già nua bệnh tật, các em đói khát, hoàn cảnh đẩy đưa, khiến cho người trẻ này đã không từ nan làm bất cứ việc gì có thể mang đến cho mình miếng cơm manh áo.
"Bần cùng thì sanh đạo tặc", quá đói phải làm liều, do đó việc cướp giựt dễ dàng xảy ra. Vài vụ cướp giựt lúc ban đầu không đáng kể, nhưng dần dần, khi Tánh Tham bộc phát, tình huống lại trở nên nghiêm trọng hơn với những vụ cướp giựt gây thương tích và chiếm đoạt nhiều vật sở hữu có giá trị.
Để bảo vệ bản thân mình, người trẻ này bắt buộc phải nhờ sự che chở của một tổ chức nào đó. Đã cam tâm tình nguyện làm thành viên của tổ chức thì phải theo quy luật của tổ chức, sai đâu đánh đó, bảo cướp cái gì thì cướp cái đó, bất kể hiểm nguy, bất kể khó khăn.
Ma túy là chất "NHỬ" cho các thành viên trong tổ chức. Làm việc tốt, tạo được nhiều thành quả tốt đẹp mới được thưởng công, Do đó, khi đã lên cơn ghiền rồi thì bảo làm gì cũng phải làm để được trả công bằng ma túy.
Rồi một ngày nào đó, những việc bất chính mà mình đã làm cũng bị phát hiện và theo dõi, cuối cùng thì nhận một bản án tù tương xứng với việc mình làm.
Đây là hình phạt của người Đồng Loại dành cho người trẻ đó. Thế còn hình phạt của Tâm Linh thì sao?
Nói về Tâm Linh là phải trở về với kiếp Quá Khứ. Câu hỏi đặt ra là, tôi đã làm gì trong kiếp quá khứ?
Câu trả lời:
- Ngày hôm nay tôi thiếu ăn thiếu mặc, thiếu thốn đủ mọi bề, đó chính là kết quả của việc tôi đã vô cùng thờ ơ, lãnh đạm trước sự đói khổ của kẻ khác, đó cũng là kết quả của việc tôi không hề biết tương trợ, biết giúp đỡ người đồng loại của tôi trong quá khứ.
- Tôi đã không hề Hành Thiện, có nghĩa là Quỷ Tiết Kiệm về Phước Đức của tôi trong quá khứ không có, cho nên ngày hôm nay tôi không có một chút Phước dư nào để giúp tôi có thể thoát cơn hoạn nạn.
- Tôi đã từng tạo nghiệp không Lành với nhiều người trong kiếp quá khứ. Những sự đau khổ mà tôi đã mang đến cho họ chính là những Nhân Hạt xấu mà tôi đã gieo trồng trên mảnh đất Tâm khô cằn của tôi. Ngày hôm nay Quả Trái đã chín muồi, những oan gia trái chủ đến tìm tôi để đòi lại món nợ khi xưa. Do đó, việc tôi bị cả một tổ chức đẩy tôi vào bước đường cùng, khiến tôi phải khốn đốn với cơn nghiện ngập lẫn cuộc sống tù đày, đó chính là cái kết quả của việc làm sai trái của tôi, thuở quá khứ.
- Từ khi còn thơ dại, tôi đã phải bươn chải kiếm sống để lo cho Cha Mẹ ốm đau, cho các em thơ yếu đuối. Họ chính là những Nghiệp Lực mặt đối mặt của tôi. Ngày nay họ trở thành Thâm Tình ruột thịt của tôi, do đó tôi không thể nào bỏ rơi họ, mà nhất định phải lo cho họ để chu toàn món nợ mà tôi đã thiếu của họ khi xưa.
Hình ảnh vừa nêu trên là hình ảnh thông thường nhất giúp cho Vong Linh thấu hiểu được lý do vì sao Thân Xác của Vong Linh ở kiếp mới vừa qua, lại rơi vào hoàn cảnh nghèo hèn, khốn khó, luôn đối diện với nhiều cảnh huống thật não lòng, thật thương tâm, đầy éo le?
Tất cả cũng chỉ là kết quả của những hành động sai lầm, nông nỗi, ngông cuồng, quá đáng, thiếu suy tư của Thần Thức của Vong Linh trong kiếp quá khứ.
Vong Linh cũng đã biết qua, Luật Nhân Quả không chừa một ai, và cũng không bỏ sót bất cứ hành vi nào dù nhỏ như hạt bụi. Đã có gieo Nhân thì sẽ có gặt được Quả trái. Gieo Nhân Lành thì nhận được Quả ngon, quả ngọt. Gieo Nhân Xấu Ác thì toàn là Quả đắng, quả chua, quả không ăn được, chúng cứ liên tục rơi vào túi áo của mình, chạy đâu cho thoát, tránh đâu cho khỏi!
Vì Tâm xấu ác, nhiều nham hiểm, vì Ý đen tối, nhiều tráo trở, vì Tánh quá dữ dằn, lúc nào cũng như muốn làm đau đớn kẻ khác, do đó mà đã không chùn tay khi gieo Nhân Hạt; một khi Nhân đã gieo rồi thì Vòng Nghiệp Lực Tâm-Ý-Tánh cũng đóng lại ngay. Người gieo nhân sẽ chờ đợi để nhận lấy quả trái từ nhân hạt mình đã gieo.
Nếu đã lỡ tay gieo Nhân hạt không Lành, nhưng lại có một sự chân thành ăn năn hối lỗi ngay lúc đó cộng thêm với một sự đền bù tương xứng cho hành động thiếu Tình Người, thiếu Nhân Cách của mình, xem như Tâm-Ý-Tánh của mình xoay chiều theo hướng Tốt, như vậy, ngay từ kiếp đó mình đã chuyển được việc dữ hóa ra hiền, đương nhiên oan trái sẽ không còn theo đuổi mình sang đến tận kiếp vị lai.
Bây giờ thì Vong Linh đã hiểu rõ hay chưa, vì sao Thân Xác của Vong Linh phải chịu trăm cay nghìn đắng, muôn điều thống khổ ở kiếp mới vừa qua? Trong Quá Khứ, càng làm nhiều điều xằng bậy, càng triển khai nhiều Tánh Xấu, Tâm càng quái dị, càng có nhiều tư tưởng châm chọc Người, quậy phá Người, tức nhiên là Oan Trái gây càng nhiều, Vòng Nghiệp Lực cứ liên tục quấn vào nhau, thì sức công phá của Nghiệp Lực ở kiếp mới vừa qua sẽ vô cùng là mạnh mẽ.
Nếu ở kiếp mới vừa qua, Thân Xác của Vong Linh vẫn tiếp tục bổn cũ soạn lại, tức là vẫn liên tục làm những điều sái quấy, như vậy Vong Linh sẽ có ngay câu trả lời về cuộc đời của Thân Xác Mới của Vong Linh trong kiếp Vị Lai sẽ như thế nào? Chắc chắn rằng sẽ không được Như Ý đâu, và đôi khi còn tệ hại hơn ở kiếp mới vừa qua!!
Nhiều kiếp Người đã trôi lăn từ trong Quá khứ, vì không có duyên may để gặp Thiện Tri Thức vạch vòi, chỉ dẫn, cho nên Thần Thức của Vong Linh cứ liên tục.....liên tục làm biết bao nhiêu điều sai lầm, vô số Vòng Nghiệp Lực đã gây tạo ra, Thù nhiều hơn Bạn, khiến cho ở bất cứ kiếp nào, Thân Xác của Thần Thức của Vong Linh đều phải ngậm đắng nuốt cay nhận chịu sự khổ sầu cho cuộc đời mình.
Một khi Thân Xác nghĩ rằng, Xã Hội đã không đãi ngộ tương xứng với tài năng, với công sức mà Thân Xác đã đóng góp, Tự Ái tức khắc sẽ dâng cao, khơi mào cho đám lửa Sân bùng lên khiến cho không thể nào kiểm soát được Tâm-Ý-Tánh, vì vậy mà Thân Xác tha hồ làm theo những gì mà Thân Xác cho là đúng, là phải.
Thân Xác đâu có biết rằng những gì xảy ra trong cuộc đời của Thân Xác ở hiện kiếp, chính là cái kết quả của những sai lầm mà Thần Thức đã gây tạo ra từ trong quá khứ. Cuộc đời của hiện kiếp dính liền với cuộc đời của kiếp quá khứ, thật sự ra không có sự đứt quãng giữa Quá Khứ với Hiện Tại và Vị Lai. Nếu được hướng dẫn, được chỉ điểm để nhận chân ra cái hình ảnh của cuộc đời trong quá khứ thì những hình ảnh không tốt đẹp của cuộc đời hiện tại có thể được chỉnh sửa một cách rất dễ dàng.
Một khi Tâm-Ý-Tánh đã được chỉnh sửa, cộng thêm với sự thành tâm thành ý để hoán đổi con người mình, cố gắng hành Thiện để đem Phước Đức đó hồi hướng cho oan gia trái chủ, chắc chắn rằng cuộc đời của Thân Xác Mới sẽ luôn được bình an.
Ngày hôm nay, Vong Linh đã được hướng dẫn, được phân tích để hiểu biết rằng, không phải Tình Cờ mà một sự việc xảy ra, tất cả đều là từ ở Luật Nhân Quả cả!! Có gieo Nhân là có gặt Quả; gieo nhiều thì gặt nhiều, gieo ít thì gặt ít; gieo Hạt giống Tốt thì Quả trái mọng nước thơm ngon, gieo Hạt giống xấu, chắc chắn rằng Quả trái thu hoạch sẽ không làm hài lòng người gieo Hạt.
Vong Linh đã hiểu rõ căn nguyên vì sao tôi đau khổ, vì sao tôi bất hạnh? Hoàn toàn do ở chính nơi mình, không có bất cứ bàn tay của ai nhúng vào để làm hại mình cả. Các Đấng Từ Bi chỉ cứu người Phước Đức gặp nạn tai, chớ không bao giờ vấy vào Nghiệp Lực của Chúng Sanh.
Do đó, mình làm lỗi, mình phải can đảm nhận lỗi, nói lời xin lỗi và biết sửa lỗi. Tất cả những việc làm sái quấy, trái Đạo, vô lương tâm, thiếu tình Người....đều xuất phát từ ở những Tánh Xấu, ở những Thói Hư, điển hình nhất là Tam Độc Tham - Sân - Si. Từ 3 cái tánh này đã phát sinh ra vô số là những Tánh Xấu khác, lôi cuốn con người đi vào Ma Trận của Nghiệp Lực, càng ngày càng quấn chặt lấy con người khiến cho không còn vùng vẫy được nữa, đành buông xuôi để mặc cho Thân Xác cứ chìm dần trong Biển Trầm Luân.
Các Đấng Từ Bi giúp cho Vong Linh cái cơ hội để biết Ăn Năn Sám Hối những hành động không đúng, giúp cho Vong Linh biết Trì Chú để làm tiêu bớt dần đi một phần nào những Nghiệp Tội, và đồng thời giúp cho Vong Linh biết Niệm Phật để nhờ Hào Quang của Phật hợp cùng hào quang của câu Trì Chú mà giúp cho Trí Huệ của Thần Thức của Vong Linh sáng lên, như vậy Vong Linh mới có thể nhận chân ra được hướng đi kế tiếp của mình, qua sự giúp sức của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát trong việc tìm Cha Mẹ tương lai của mình.
Vong Linh hãy hồi vị và cố gắng tư duy thật sâu sắc những gì mà ngày hôm nay Vong Linh đã nghe, đã hiểu, và đã thâm nhập. Đó chính là những hành trang vô cùng cần thiết để cho Vong Linh mang theo mà sử dụng ở cuộc đời của kiếp vị lai.
Với những hành trang này, chắc chắn rằng cuộc đời của Thân Xác Mới sẽ ít chịu lụy phiền hơn, sẽ sống an ổn hơn, những Hạt Giống Bồ Đề đã được gieo trồng trên mảnh đất Tâm của Vong Linh, mong rằng Thân Xác Mới sẽ thường xuyên vun phân tưới nước bằng cách luôn luôn chỉnh sửa Tâm - Ý - Tánh của mình, nhất là luôn trau giồi Tánh Tình, loại bỏ những Thói hư Tật xấu. Càng tích lũy nhiều Tánh tốt, sẽ càng làm cho mảnh đất Tâm phì nhiêu hơn, giúp cho Hạt Giống Bồ Đề sớm đơm hoa kết trái.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 13:
Vong Linh cũng đã hiểu rằng, xã hội bao gồm nhiều tầng lớp người: giàu có, trung lưu có, nghèo khổ có. Bên lề xã hội cũng vẫn có những mảnh đời bất hạnh, cuộc sống thật là bần hàn, cơ cực, quạnh hiu với quá nhiều khó khăn luôn bủa vây, trói buộc tưởng chừng như không bao giờ thoát được.
Mặt trái của xã hội luôn luôn là thương tâm, là đau khổ, là đói rách, là bất công; trong khi đại diện cho mặt nổi của xã hội toàn là những kẻ cao sang quyền quý, ăn trên, ngồi trước, lời của mình là Lệnh, ý của mình là ngọn đuốc soi đường.
Đề cập đến sự giàu sang của một con người, cần phải có một cái nhìn thật là khách quan và cởi mở. Bản tánh của con người là hay ganh tỵ, đứng trước sự sang trọng, giàu có của kẻ khác, rất khó giữ Tâm cho thật Bình.
Sự giàu sang đối nghịch với sự nghèo nàn.
Bài Pháp vừa qua đã giúp cho Vong Linh hiểu một cách tường tận cái lý do vì sao mà một con người phải cam chịu sống trong cảnh nghèo nàn cơ cực. Cái hoàn cảnh khốn cùng đó, cái cảnh huống não lòng đó đã do tự mình tạo ra, đã do chính tay mình xây dựng nên từ trong quá khứ thì ngày giờ này, ở hiện kiếp, đương nhiên là mình nhận được một căn nhà rách rưới, trống trước, trống sau, hoàn toàn không có gì đáng giá ở bên trong.
Sự giàu sang của một con người là biểu tượng của một sự dành để, chắt chiu từng Phước Báu, từng hành động Thiện của Thần Thức trong con người đó, trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ. Ngày giờ này, ở hiện kiếp, một cuộc đời giàu sang, tốt đẹp dành cho Thân Xác của Thần Thức, đó chính là cái Phước Dư của những Phước Đức đã được tích lũy từ ở kiếp Quá Khứ.
Có 2 trường hợp có thể xảy ra:
A/ Nếu người hưởng sự giàu sang đó vẫn tiếp tục hành Thiện, làm những điều tốt đẹp cho mọi người, biết bố thí, biết tương trợ, luôn tích lũy những Phước Báu, thì người đó sẽ luôn luôn được hưởng sự giàu sang, cũng có thể cho đến khi nhắm mắt lìa đời. Nếu người đó biết hành Thập Thiện và lại có thêm Phước Báu đủ đầy thì việc thác sanh về cõi Trời sau khi mãn báu thân là việc đương nhiên.
Hành Thập Thiện tức là Sống theo 10 điều Thiện sau đây: Không sát sanh - Không trộm cắp - Không tà dâm - Không nói láo - Không nói lưỡi 2 chiều - Không nói lời độc ác - Không nói lời phù phiếm - Không tham lam - Không sân hận - Không si mê.
B/ Nếu người đó chỉ biết hưởng sự giàu sang mà không làm bất cứ điều gì để gia tăng Phước Báu, sẽ có 2 trường hợp xảy ra:
Trường hợp 1: Người đó bình an hưởng sự giàu sang cho riêng cá nhân mình, hoàn toàn không để ý đến những khó khăn, những bất hạnh của người đồng loại, thì sự hưởng thụ đó cũng như sự chở che từ Phước Báu sẽ chấm dứt khi những phước báu được tích lũy từ ở kiếp quá khứ đã cạn kiệt, không còn nữa. Điều này có thể xảy ra trước khi người đó chấm dứt mệnh số.
Khi phước báu không còn nữa thì một hay nhiều Nghiệp Lực đáng kể lần lượt nối đuôi nhau xuất hiện và phá tác, cũng có thể lại khiến cho người đó rơi vào hoàn cảnh túng thiếu, bần hàn.
Trường hợp 2: Người đó hưởng sự giàu sang, phú quý, nhưng lại gây tạo nên vô số là chuyện quấy trá, thương tâm. Đây mới chính là điều đáng nói!
Tất cả đều do lòng THAM mà ra. Tuy rằng xuất thân từ danh gia vọng tộc, thật sự sang giàu, nhưng lại sở hữu nhiều tánh xấu khiến cho con người trở nên bất lương, nham hiểm, vô nhân đạo, mất tình người. Đối với hạng người này, TIỀN là trên hết, bao nhiêu cũng không được xem là ĐỦ, túi tham của họ hoàn toàn không có đáy!
Tham tiền luôn luôn đi kẹp đôi với tham quyền. Khi trong tay đã có đủ đầy quyền bính rồi thì họ mặc sức vẫy vùng và làm nhiều điều trái đạo, không còn thích hợp với tình người nữa, và nhất là không ngần ngại hiếp đáp những người yếu hèn, thấp cổ bé miệng, kém thế hơn mình để thị uy.
Ngày giờ này không còn Thân Xác nữa, Vong Linh chắc chắn thấu suốt lời Pháp và cảm nhận được rõ ràng, có khi còn hơn thế nữa, cái bức tranh tổng thể của cõi Ta Bà hiện nay.
Từ người giàu có cho đến kẻ cùng đinh, tất cả đã lộ ra một cái Tâm vô cùng là Kinh Khủng, một cái Tâm mà không có bút mực nào diễn tả được, từ cái Tâm đó đã phát sinh ra vô số những Ý tưởng kỳ quái, đen tối và ghê rợn vì không còn một chút gì là Tình Người, là Nhân Bản. Bên cạnh đó, Chúng Sanh càng ngày càng thụ đắc nhiều....thật nhiều Tánh Xấu. Thói hư tật xấu bàng bạc khắp mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh, mọi môi trường. Từ đứa bé thơ cho đến người lớn tuổi, từ xứ sở văn minh cho đến quốc gia lạc hậu, số người mang nhiều Tánh Tốt chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Tâm - Ý - Tánh quá xấu ác đã chiêu cảm hàng hàng lớp lớp BIẾN ĐỘNG, nào là lụt lội, nào là hạn hán, nào là núi lửa phun, nào là sóng thần, nào là dịch bệnh.... thế mà Chúng Sanh vẫn thờ ơ, vẫn xem những biến động là những hiện tượng thông thường của địa lý. Thậm chí có những kẻ đã lợi dụng những biến động xảy ra để trục lợi, để làm giàu trên sự mất mát, sự thiệt hại của kẻ khác.
Khi Vong Linh còn hơi thở, không cần biết Thân Xác của Vong Linh đã đóng góp như thế nào cho gia đình, cho xã hội, cho Quốc Gia, Dân Tộc, những đóng góp đó là những điều tốt đẹp, hay chỉ là những điều tai hại và vô bổ cho Đồng Loại của mình, ngày giờ này, Vong Linh chỉ còn là một Thần Thức nhẹ như bông, như sương, như khói, hoàn toàn trắng tay, chỉ còn lại cái Tâm-Ý-Tánh và cái túi A Lại Da Thức chứa đầy Nghiệp lớn lẫn Nghiệp nhỏ, sẵn sàng dẫn dắt Thần Thức của Vong Linh xuyên suốt 6 nẻo Luân Hồi.
Hãy bắt lấy cơ hội 49 ngày Đặc Ân này để Sám Hối, để Ăn Năn, để Hối Lỗi cho toàn thể những hành động sai trái của mình trong kiếp mới vừa qua. Đây cũng là dịp để cho Vong Linh hồi tưởng lại cái bản chất thật của chính con người mình trong cách đối xử với người Đồng Loại của mình.
Dù cho Thân Xác của Vong Linh lâm vào cảnh nghèo hèn, khốn khó hay nương vào phước báu mà sống trong sự giàu sang, quyền quý, Thân Xác của Vong Linh cũng đã có từng nhúng tay vào những điều trái đạo, cũng đã từng gây sóng gió, từng đem đến sự não lòng cho người Đồng Loại của mình qua nhiều kiếp trong quá khứ cho đến kiếp mới vừa qua.
Nói tóm lại là phải có sự chỉnh sửa hoàn toàn Tâm-Ý-Tánh, bắt buộc phải có sự thanh lọc toàn bộ Tánh Tình mình. Nếu Vong Linh không quyết tâm làm việc đó trong suốt 49 ngày đặc ân, thì việc trở lại cõi Ta Bà sẽ không được dễ dàng, và cuộc đời của Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ vì đó mà gặp nhiều trắc trở, nhiều lụy phiền.
Hãy cố gắng tận dụng thời gian 49 ngày đặc ân này để hoán chuyển tất cả mọi điều không tốt đẹp của mình. Hãy triệt tiêu hết những Tánh Tình quái dị, xấu xa của mình, và tích lũy, vun bồi thật nhiều Tánh Tốt. Ngày trở lại cõi Ta Bà, Thần Thức của Vong Linh sẽ ở trong một Thân Xác Mới, MỚI từ Thể Xác cho đến Tâm Linh.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt!!!
Ngày thứ 14:
Hỡi Vong Linh (Tên họ... Pháp Danh... ),
Sau 49 ngày đặc ân để tu tập, để chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh của mình, Vong Linh sẽ được Bồ Tát Địa Tạng Vương giúp cho trở lại cõi Ta Bà, an trụ trong ngôi nhà Mới với Cha Mẹ mới, với Anh Chị Em mới, với Bà Con Thân Tộc mới.
Vong Linh sẽ không lang thang vất vưởng, không đói khát, không chịu nhiều đắng cay, cùng cực. Bất cứ nơi đâu của cõi Ta Bà cũng đều mang lại cho Thân Xác Mới của Vong Linh sự khởi sắc, niềm hy vọng chứa chan về một cuộc đời tốt đẹp. Thân Xác Mới cũng sẽ có biết bao nhiêu cơ hội cho bước tiến thủ của mình. Cõi Ta Bà sẽ là nơi mà Thân Xác Mới phát huy toàn bộ khả năng của mình. Nói tóm lại, Vong Linh sẽ vô cùng hứng khởi cho lần trở lại cõi Ta Bà.
Câu hỏi được đặt ra là, Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ quan tâm đến cõi Ta Bà như thế nào?
Hồi tưởng lại cuộc đời ở kiếp mới vừa qua nơi cõi Ta Bà, Thân Xác của Vong Linh đã đóng góp như thế nào trong việc giúp cho cõi Ta Bà thêm khởi sắc?
Cõi Ta Bà, ngoài cái khung cảnh thiên nhiên vô cùng biến đổi, đầy hình thái, đầy màu sắc với trùng trùng điệp điệp núi non, sông hồ, biển cả, rừng rậm, còn là một kho tàng bát ngát, mênh mông với nhiều quặng mỏ, nhiều thú rừng đủ loại, nhiều cây rừng thuộc loại quý giá, biển cả chứa đầy trân châu mã não, những hải sản vô cùng quý hiếm.
Mỗi Quốc Gia trong cõi Ta Bà đều có một sắc thái riêng, một nét đẹp riêng, một sự quyến rũ đặc biệt, hấp dẫn du khách đến thưởng ngoạn. Đất nước nào cũng đẹp, Dân Tộc nào cũng có nét đặc trưng, đặc thù. Mỗi Quốc Gia, mỗi Dân Tộc là một ĐÓA HOA đầy hương sắc tạo nên kỳ hoa dị thảo cho khu vườn của toàn cõi Ta Bà.
Thế nhưng, chính con dân của các Quốc Gia đã cam tâm hủy hoại nét đẹp của đất nước mình. Môi trường XANH tạo nên cái không khí trong lành, đã vì lòng tham lam của người dân, mà bị đào xới, phá hủy; cây rừng cứ thi nhau mà ngã xuống để làm đầy cái túi tiền của những kẻ trục lợi.
Khí thải từ các nhà máy cứ liên tục nhả khói, tạo nên một sự ô nhiễm dày đặc trong không khí, mở đường cho sự xâm nhập của các mầm bệnh vào trong nội tạng của cơ thể. Bầu khí quyển càng ngày càng mỏng dần, ảnh hưởng vô cùng mạnh mẽ đến sự ngăn chận những tia sáng của mặt trời, từ đó đã phát sinh ra nhiều bệnh trạng lạ lùng, khó chữa trị.
Những chất độc hại, cặn bã được thải xuống sông ngòi, ao rạch và biển cả, khiến cho hàng hàng lớp lớp loài thủy tộc bị tiêu diệt. Trên rừng thì những loài thú quý hiếm bị săn lùng và tiêu diệt gần hết.
Quốc Gia nào sở hữu những quặng mỏ quý giá, hiếm có, sẽ khó lòng có những ngày yên bình. Có biết bao kẻ chực chờ, tìm đủ mọi cách để chiếm đoạt bằng những thủ đoạn chính trị, ngoại giao, kinh tế, và luôn cả sức mạnh vũ khí.
Thế Giới càng văn minh, khoa học kỹ thuật càng tân tiến, con người càng phá nát, càng quậy tung cái cõi Ta Bà. Do đó mà Biến Động cứ liên tục xảy tới. Rừng bị đào xới, cây cứ liên tục bị đốn ngã, muốn ngăn chận thác lũ, không phải là điều dễ dàng. Những công trình thủy đập trên một con sông có lộ trình thật dài, trải qua nhiều quốc gia, luôn gây bao cảnh dở khóc dở cười cho kẻ thượng nguồn, người hạ nguồn, chiến tranh nếu xảy ra, quả là điều không ngạc nhiên.
Lòng Tham của con người đột nhiên cao tột, họ thẳng tay quậy phá đất nước của mình và luôn cả đất nước láng giềng mà không một chút ái ngại hay chùn tay. Người ta lý luận rằng, thiên nhiên không thuộc của riêng ai, nếu có chiếm hữu sẽ không bị bắt tội. Do đó, người có quyền thế thì lấy nhiều, chiếm đoạt nhiều, kẻ thuộc cấp thì lấy ít, thường dân thì lấy chút chút, tóm lại thì mạnh ai nấy lấy, càng nhiều càng tốt!
Cuối cùng rồi thì đất nước tan hoang, đất đai bị cắt xén, tài nguyên bị đào xới, bán buôn, trao đổi để trục lợi, để làm đầy túi Tham.
Sự tham lam làm cho người ta mờ mắt, đâu đâu cũng chỉ thấy có TIỀN. Từ đồng tiền đã phát sinh ra biết bao nhiêu là Thói Hư Tật Xấu, có tiền sẽ có ăn chơi, có rượu chè, cờ bạc, hút sách, cần sa ma túy, có ái dục, có những cảnh tranh giành trai gái, có ganh tị, có ghét ghen, có lường gạt, có thủ đoạn, có chiếm đoạt, có thanh toán lẫn nhau, và cuối cùng thì không tránh khỏi rơi vào Nghiệp Sát!!
Với một Tâm Chúng Sanh như thế thì làm sao có thể chống đỡ được những Biến Động ập vào Quốc Gia mình, hay tối thiểu cái vùng mình cư ngụ?
Với một môi trường bị phá nát, không có gì để chống đỡ mỗi khi có những thay đổi về địa lý, cộng thêm với Tâm Chúng Sanh quá là xấu ác, lúc nào cũng phóng ra những luồng khí đen ngòm như lôi cuốn, như mời gọi, thì bảo sao Biến Động không ùa tới?
Hết lũ lụt đến hạn hán, rồi đến giông bão, đến núi lở, đến sóng thần, lại thêm núi lửa phun, bão tuyết ngập tràn, thêm dịch bệnh kinh hoàng... tất cả đều chiêu cảm từ ở Tâm Chúng Sanh.
Tâm Chúng Sanh càng quái dị, đúc kết từ ở những Tánh Tình quá là xấu ác, độc hại, từ ở cái Tâm không Hiền, nhiều toan tính, để rồi nảy sinh ra biết bao nhiêu tư tưởng đen tối, lọc lừa, mưu mô, sẽ khiến cho môi trường của cõi Ta Bà càng ngày càng trở nên tệ hại hơn. Chúng Sanh mong muốn ở trong một ngôi nhà khang trang, đẹp đẽ hay thích trú ngụ trong căn nhà tồi tàn, rách rưới?
Vong Linh đã hiểu rõ rằng, sự thịnh vượng, sự khởi sắc của cõi Ta Bà tùy thuộc rất nhiều vào Tâm Chúng Sanh. Tâm Chúng Sanh với vòng hào quang bao phủ sẽ mang đến cho cõi Ta Bà một sắc thái rực rỡ, một sự tươi mát, một sự khởi sắc, và nhất là không phải thường xuyên đối diện với những Biến Động đem đến sự tang thương cho cõi Ta Bà.
Muốn có một Tâm Chúng Sanh Lành, Tâm Chúng Sanh Thiện, bắt buộc phải trau giồi Tánh Tình để loại trừ tất cả những Tánh xấu, tánh độc hại có thể làm phát ra những luồng khí đen, chiêu cảm lấy những sự bất thường của những thay đổi về Địa Lý. Chính những luồng khí đen này mới góp phần vào việc làm hủy hoại cái môi trường tốt đẹp của cõi Ta Bà.
Trong suốt 49 ngày đặc ân để tu tập, để chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh, Vong Linh hãy nỗ lực triệt tiêu hoàn toàn những Tánh Xấu, những thói hư của mình, cố gắng trau giồi và khắc cốt ghi tâm những tánh tốt, để khi trở lại cõi Ta Bà, với một căn bản tốt đẹp vững chắc, Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ tiếp tục duy trì Tâm Tánh Thiện; và cái Tâm trong sáng đó, cái Tâm rực ánh hào quang đó sẽ luôn luôn là màn chắn bao phủ cõi Ta Bà, chống trả lại sự phá tác của những Biến Động.
Bên cạnh đó, với cái căn bản là những người Tốt, sự cần mẫn, sự liêm chính trong công việc, cộng thêm với sự tháo vát, sự hiểu biết sâu rộng trong khả năng, lần hồi, Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ đẩy lùi tất cả những kẻ trục lợi, những kẻ tham lam, làm những điều tác tệ phương hại đến Quốc Gia Dân Tộc, cũng như Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ tiếp tay gìn giữ cái môi trường của cõi Ta Bà ngày thêm tốt đẹp.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt, mong rằng Vong Linh sẽ tư duy thật sâu sắc hơn lời Pháp để chuẩn bị cho việc trở lại cõi Ta Bà cùng với ý chí mạnh mẽ triển khai những Tánh Tốt, thực hiện những điều tốt đẹp cho Đất Nước của mình, cho Dân Tộc của mình, điều mà đúng lý ra Thân Xác của Vong Linh phải HÀNH từ cuộc đời của kiếp mới vừa qua.
Một cây làm chẳng nên Non, Ba cây chụm lại nên Hòn Núi cao. Cõi Ta Bà đang cần...rất cần sự chung lưng đâu cật, sự đóng góp tích cực của những con người bằng xương bằng thịt, cũng như sự tiếp tay của những Thần Thức đã được Khai Ngộ để hiểu rõ tầm quan trọng của việc chỉnh sửa Tâm - Ý - Tánh. Nhờ đó mà cõi Ta Bà mới có được những con Người mang đúng bản chất Người để xây dựng lại những hoang tàn đổ nát, và đồng thời tân trang và gìn giữ những nét đẹp cố hữu đặc thù của cõi Ta Bà.
TUẦN THẤT THỨ BA:
Ngày thứ 15:
Ngày Vong Linh còn trên Dương Thế, Thân Xác của Vong Linh đã có lần nào trải nghiệm với con bài, canh bạc hay chưa?
Việc thử thời vận không khác chút nào với việc nhấp ly rượu lần đầu tiên. Đạt thắng lợi sau lần thử thời vận, và một giấc ngủ say nồng sau ly rượu lần đầu tiên, tất cả sẽ mở màn cho việc lăn xả vào cuộc chơi!
Sòng bài có một ma lực hấp dẫn, lôi kéo người chơi; một vài bàn thắng nhỏ khiến cho người chơi hừng chí, để rồi đem hết sức mình đặt vào ván bài lớn, và cái chung cuộc là " Trắng Tay "!!
Thua keo này ta lại bày keo khác, quyết phải "gỡ gạc" lại, nhưng càng gỡ thì càng thua; một giờ qua....rồi hai giờ qua...rồi ba giờ qua...rồi đêm cứ tàn dần....người chơi vẫn còn đó, mặt mũi bơ phờ sau một đêm dài thức trắng, đầu muốn lìa khỏi cổ vì những suy tư cho đường đi nước bước của mỗi ván bài. Tiền trong túi đã hết, tư trang trên người cũng đã đem đi cầm thế ngay tại sòng bài, chỉ còn lại một thân xác mệt mỏi, thất thểu, bước ra khỏi sòng bài với nhiều luyến tiếc.
Dù người chơi là Nam hay là Nữ, tâm trạng của kẻ thua cuộc cũng đều y như nhau. Một chút hối hận dâng trào khi mình đã thua hết số tiền dành để lo cho gia đình, rồi thì gia đình bữa đói, bữa no, kẻ ốm đau, người thiếu thuốc chạy chữa. Người chơi cứ như ngồi trên lửa đỏ, càng cảm thấy hối hận, lại càng gấp rút muốn trở lại sòng bài để thử thời vận thêm lần nữa, hoặc để gỡ gạc, may ra mình lại được số hên, đem tiền về lo cho gia đình để bớt đi cái mặc cảm.
Nhưng hỡi ơi! Càng chơi càng thua. Đồ đạc trong nhà cứ bán lần, cho tới khi không còn gì để bán, sang qua mượn nợ thì tiền mượn với tiền lời lại tương đương, lần hồi thì vốn mượn chỉ có một nhưng lời phải trả thì lên đến 10 lần nhiều hơn vốn! Hoàn cảnh đẩy đưa khiến cho người chơi bạc dính líu với giới Giang Hồ, và kể từ đây không khác gì cá nằm trong rọ, mặc tình cho người sai bảo, điều khiển cuộc đời mình.
Những cuộc đỏ đen đã làm hủy hoại một con người, đã khiến cho một gia đình tan nát, con cái không người chăm sóc, dạy dỗ, thiếu ăn, thiếu mặc, trở thành kẻ đầu đường xó chợ, thế hệ tương lai của Quốc Gia Dân Tộc, chỉ một sớm một chiều bị dìm xuống bùn nhơ, khó lòng ngoi đầu lên được.
Nên nhớ rằng, đồng tiền cờ bạc là "Đồng Tiền Nặng", nặng không có nghĩa là cái trị giá của nó rất cao, mà nặng nơi đây chính là nặng ở cái lòng Tham! Vì ham muốn có nhiều tiền cho nên mới lao đầu vào cuộc đỏ đen. Sòng bạc được lập nên từ ở những đồng tiền sát phạt trên canh bài ván bạc, tự bản chất của nó đã nặng nề vì tính chất Tham Lam. Những tay chơi cũng vì tham tiền mà tới. Hai tính chất Tham này kết hợp lại, khiến cho đồng tiền thu hoạch được từ ở những cuộc chơi sẽ trở nên nặng nề, và có khuynh hướng rơi xuống, khó lòng cất giữ được.
Người ta vì trục lợi nên sòng bạc mọc lên như nấm, để cho các người chơi lao đầu vào như những con thiêu thân. Thiêu thân chết càng nhiều thì túi tiền của các chủ sòng bài cứ phình to ra, và cứ nặng thêm lên.
Nguyên tắc của sòng bài là THẮNG. Nếu sòng bài thắng thì người thua bắt buộc phải là các người chơi. Cửa Huề không có, chỉ có cửa Thua, đôi khi cũng có một vài ván bài thắng, nhưng đó chỉ là một cách làm mờ mắt thiên hạ, cho thắng vài ván bài nho nhỏ để rồi thua những ván bài kế tiếp lớn lao hơn nhiều. Trong trường hợp sòng bài gặp người chơi quá giỏi, quá lão luyện, chỉ có thắng chớ không có thua, sòng bài sẽ tìm cách đối phó ngay để trục người chơi đó ra khỏi sòng bài.
Hôm nay, Vong Linh đã nhận chân ra được cái thực chất của việc cờ bạc; với vai trò của kẻ bàng quang, Vong Linh nhìn vào quang cảnh của sòng bài với một tâm trạng thật là dửng dưng. Đó là tại vì Vong Linh đã không còn Thân Xác nữa, cái nhìn nơi đây là cái nhìn của một Thần Thức đã thấu hiểu những sai lầm, những lệch lạc, những điều không đúng, những hành động thiếu ý thức. Thần Thức không còn bị chi phối bởi Thân Xác nữa, cho nên đã vượt qua cái tầm ảnh hưởng của cái Tánh.
Chính cái Tánh đã lôi cuốn Thân Xác vào bước đường cùng, rơi vào hố sâu vực thẳm. Ngày còn trên Dương Thế, Thân Xác của Vong Linh đã vì mê cờ bạc mà đánh mất hạnh phúc gia đình, không còn nơi nương náu, không còn tâm trí để làm việc, trở thành kẻ lang thang vất vưởng, sống nhờ vào sự bố thí của những người tốt bụng.
Đó là chưa kể đến việc, hoàn cảnh đẩy đưa, khiến cho Thân Xác của Vong Linh lại lâm vào việc hút sách, sử dụng cần sa ma túy, làm những điều tác hại. Đúng lý ra, Thần Thức của Vong Linh vì bị ảnh hưởng của tam độc SI, cho nên phải chịu cảnh đọa đày trong thân xác THÚ, nhưng các Đấng Từ Bi đã cho thời gian đặc ân 49 ngày để tu tập, để chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh, để chuẩn bị lại hành trang của mình cho tốt đẹp hơn, để đến khi an trụ ở cõi Ta Bà, Thân Xác mới sẽ có đầy đủ hành trang tốt đẹp và cần thiết giúp cho cuộc đời mình được bình an, ít sóng gió và có nhiều ý nghĩa hơn.
Một người Cha, một người Mẹ với nhiều Tánh Tốt, sẽ là những hình ảnh trân quý trong tâm khảm của đứa con, sẽ là kim chỉ nam dẫn dắt con mình trở thành người hữu dụng cho xã hội, cho Quốc Gia Dân Tộc. Từng thế hệ tiếp nối, những việc làm tốt đẹp của thế hệ đã qua vẫn còn lưu lại tiếng vang cũng như tầm ảnh hưởng đối với hàng Hậu Bối.
Vong Linh hãy khắc ghi lời Pháp hôm nay, cố gắng trau giồi những Tánh Tốt, quyết tâm loại trừ những Tánh Xấu, trong đó có tánh ham mê cờ bạc; quyết sửa đổi và trau giồi Tâm - Ý của mình để luôn được ngời sáng.
Trong tương lai, khi đã trở thành Chúng Sanh của cõi Ta Bà rồi, với một Tâm Ý lúc nào cũng luôn rạng ngời, luôn có những tư tưởng thanh cao làm nền tảng cho những Tánh Tốt, chắc chắn rằng Hào Quang của Thân Xác sẽ sáng chói, góp phần vào việc đem lại sự An Bình, điều tốt đẹp cho vùng đất mình cư ngụ.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 16:
Hỡi Vong Linh (Tên họ...Pháp Danh...), Vong Linh hãy thật tâm trả lời câu hỏi sau đây:
Ngày còn tại Thế, Thân Xác của Vong Linh đã có từng sử dụng MA TÚY hay không?
Thân Xác của Vong Linh đã có từng dính líu đến việc chuyển tải, mua bán ma túy, và xúi giục người khác đi vào con đường nghiện ngập hay không? Thân Xác của Vong Linh có can dự vào việc làm hại kẻ khác khi có sự cạnh tranh trên thương trường ma túy giữa các tổ chức hay các phe nhóm với nhau hay không?
Dù câu trả lời là CÓ hay KHÔNG CÓ thì đây cũng là dịp để cho Vong Linh nhận thức được một cách rõ ràng sự tai hại của việc sử dụng ma túy.
Ma túy là tiếng gọi chung của bạch phiến, của á phiện, của cần sa, của nhựa đen, của Meth, của cocaine, của LSD..v..v..Tóm lại, đó là tất cả những gì tạo cho người ta một cảm giác lâng lâng, một sự kích thích tột độ, một ảo giác làm cho người ta thích thú và muốn hòa mình vào cảm giác đó.
Ban đầu còn là người hiếu kỳ, muốn trải nghiệm cái cảm giác, muốn xem coi cái kích thích đó nó như thế nào, nhưng, sau lần trải nghiệm đó rồi thì không thể nào dừng chân lại được cả. Cái Ma Lực toát ra từ ma túy nó như dính chặt vào người chơi qua cái cảm giác lâng lâng, phiêu phiêu, phưởng phưởng, cơ hồ như thoát tục, tìm về một thế giới của chính mình, của riêng mình.
Sự tai hại của ma túy chính là ở điểm đó! Vướng vào nó lần thứ nhất, nếu quyết tâm từ bỏ cũng đã mất nhiều công sức rồi. Vướng lần thứ hai sẽ giống như người ăn một món ngon nhưng chưa đả, cứ thèm thuồng, muốn ăn thêm. Vướng đến lần thứ ba thì xem như "không còn thuốc để chữa" vì sự nghiện ngập đã bắt đầu mọc rễ rồi.
Sức công phá của ma túy không ồ ạt ở buổi ban đầu, bước chân của nó rất nhẹ nhàng, tạo một cảm giác thoải mái, dễ chịu cho người sử dụng nó. Dần dần, người chơi trở thành Nô Lệ của nó lúc nào không hay, nó phải luôn luôn có mặt trong cuộc đời của người đó, thiếu sự hiện diện của nó, người chơi sẽ vô cùng vật vã, khổ sở với một thân thể gầy còm, yếu đuối, không di chuyển nổi, mất đi khả năng làm việc, và mất luôn cả tư cách con Người.
Điều đáng nói là, có rất....rất nhiều người tình nguyện làm nô lệ cho ma túy, từ những kẻ cùng đinh, ít học, đến những người cao sang quyền quý, có danh phận, có chức tước. Có điều rằng, những người có địa vị trong xã hội, do họ có đủ tư lực về tài chánh để hút sách, nên thân thể của họ vẫn luôn sung mãn, và họ dễ dàng che giấu thân phận nghiện ngập của họ.
Kẻ nghèo nàn thì chọn giải pháp gia nhập vào các tổ chức mua bán ma túy để còn có cơ hội được trả công bằng ma túy. Có thể nói rằng đây là những tổ chức đã làm lũng đoạn cơ cấu của Quốc Gia của chính họ, và luôn cả những Quốc Gia trên toàn thế giới.
Lòng THAM vô cùng tận khiến cho họ không từ nan làm bất cứ việc gì để có TIỀN. Ma túy còn dính líu đến việc Buôn Người, Buôn Súng, mở Sòng Bạc, điều khiển những động Mãi Dâm, cho vay nặng lãi (thường thì tiền lời vượt tiền vốn khá xa)....thu hút biết bao nhiêu Thanh Thiếu Niên vào con đường trụy lạc, ăn chơi, hút sách, làm những điều trái Đạo, trái luân thường đạo lý, đánh mất lương tâm, không còn Nhân cách con người. Các Thanh Thiếu Niên này chưa từng biết đến Trường Học, chưa từng được nghe một lời Hay, Ý Đẹp, một lời khuyên giải chân thành, và cũng hoàn toàn mù mịt về thế nào là sản phẩm của Trí Tuệ.
Trong khi các bạn đồng trang lứa đang miệt mài trên ghế nhà trường, đang lãnh hội kiến thức từ ở các Cô Thầy Giáo, thì các Thanh Thiếu Niên này cũng miệt mài, nhưng, bên mâm đèn, bên những điếu cần sa, bên những viên thuốc kích thích, đưa hồn mình lên tận Thiên Thai bằng những điệu luân vũ quay cuồng, thô bạo, không còn tính chất Người trong đó. Họ hoàn toàn không còn kiểm soát được bản thân của mình.
Họ chính là những người Mù quờ quạng trong bóng đêm, chỉ biết có mỗi cái mùi vị của Ma Túy mà thôi! Một ngày qua là có biết bao nhiêu Thanh Thiếu Niên rơi vào hố sâu vực thẳm. Đó là chưa kể đến những chết chóc do các tổ chức thuộc xã hội đen thanh toán lẫn nhau.
Các tổ chức này đi đến đâu là gieo rắc tai ương đến đó, gây nỗi lo sợ cho toàn thể các Quốc Gia trên Thế Giới. Họ có nhiều Tiền lắm Bạc, lại thêm súng ống đủ đầy, nên có đôi khi họ ôm luôn cái tham vọng muốn chiếm đoạt chính quyền của một Quốc Gia nào đó để dễ dàng thao túng trên thị trường mua bán ma túy. Nơi đâu mà có sự hiện diện của các tổ chức này thì dân chúng nơi đó sẽ trở nên nghèo nàn, cơ cực, thất học, luôn nghiện ngập, đánh mất tương lai và ngoan ngoãn trở thành Nô Lệ cho các tổ chức đó để được trả công bằng ma túy.
Những kẻ nghiện ngập là một gánh nặng cho xã hội, họ mất khả năng làm việc vì phải luôn đối phó với những cơn ghiền. Vì không có tiền để mua ma túy, hoặc chỉ có thể hút chút chút thì cơn ghiền sẽ hành hạ họ, làm cho thân thể họ rã rời, yếu ớt, đứng không vững nữa.
Họ đã không làm gì được cho xã hội, ngược lại, xã hội phải nuôi sống họ qua những chương trình cứu đói, và còn phải giúp họ cai nghiện nữa. Đôi khi vừa xong việc cai nghiện, họ lại nghe theo lời đường mật dụ dỗ của những kẻ trong tổ chức mà trở lại con đường cũ, thế là bao nhiêu công trình trong suốt thời gian cai nghiện hoàn toàn đổ sông đổ biển, cuộc đời của họ xem như khó mà cứu vãn được. Họ chỉ còn biết sống lang thang vất vưởng, xin ăn qua ngày, xin được đồng nào là vội vã đi mua thuốc để hút ngay.
Ngày giờ này, khi Thân Xác không còn nữa, việc hồi tưởng hay nhìn ngắm lại những việc làm tai hại, tai hại cho bản thân, tai hại cho Xã Hội, tai hại cho những người chung quanh, Vong Linh có cảm nghĩ như thế nào?
Đối với bản thân mình, chính mình đã hủy hoại con người mình. Như Vong Linh đã thấy đó, muốn trở lại kiếp Người, không phải là điều dễ dàng, phải đủ duyên gặp gỡ Cha Mẹ, Anh Chị Em, Bà Con Dòng Họ, nhất là Cha Mẹ, không có Cha Mẹ, làm sao Thần Thức ra đời? Cha một nơi, Mẹ một ngã, muốn gặp gỡ không phải chỉ một cái búng tay, tất cả đều phải từ Nghiệp Lực đưa đường dẫn lối.
Khó khăn biết bao nhiêu mới cất được tiếng khóc chào đời! Cha Mẹ dưỡng nuôi cho đến ngày khôn lớn, đúng lý ra phải cấp sách đến trường để rèn luyện, vun bồi Trí Tuệ, làm nên những điều tốt đẹp, trước là cho bản thân mình, sau là trả ơn công sanh thành dưỡng dục, cuối cùng là trả nợ cho Quốc Gia Dân Tộc đã cưu mang mình, đã giúp cho mình những phương tiện để phát huy cái khả năng làm việc của mình, mang đến cho mình một cuộc đời tốt đẹp.
Thử đặt câu hỏi rằng, nếu đa số con dân trong một Quốc Gia đều là kẻ nghiện ngập, Quốc Gia đó có tồn tại lâu dài trên bản đồ Thế Giới hay không? Quốc Gia bị xóa tên thì Lãnh Thổ làm sao còn, mà Quốc Gia không còn thì Dân Tộc cũng sẽ ly tán, sống đời tha phương, trong đó có mình.
Như đã đề cập khi nảy, người nghiện ngập không những làm hại bản thân mình mà còn là gánh nặng cho Xã Hội; Xã Hội phải nuôi họ, phải giúp họ cai nghiện, phải giúp họ hòa nhập vào Xã Hội, phải đào tạo họ từ những chương trình huấn nghệ để họ có thể tìm được công ăn việc làm mà tự nuôi sống họ.
Những ngày tháng sống lang thang vất vưởng, bữa đói, bữa no rất dễ dàng khiến cho con người nhúng tay vào những chuyện quấy trá. Khi cơn ghiền đã bộc phát rồi thì những việc như, cướp giựt, trộm cắp, lường gạt, dối gian và thậm chí giành giựt nhau đưa đến ấu đả cũng chỉ vì một điếu thuốc hay một viên thuốc, quả là điều khó lòng tránh khỏi.
Trùng trùng điệp điệp chuyện sai trái được tạo nên, thì chắc chắn rằng Nghiệp Chướng sẽ không thể nào ít ỏi được. Đắm chìm trong cơn MÊ Ma Túy thì chính tự tay mình vùi chôn mình vào trong hố sâu vực thẳm của Ma Túy, chính tay mình đã hủy hoại Thân Huệ Mạng của mình và quấn không biết bao nhiêu Vòng Nghiệp Lực chung quanh mình.
Ngày nay làm thân Vong Linh, với bao nhiêu Nghiệp Lực lớp cũ, lớp mới quấn chặt lấy mình, Vong Linh có cảm thấy nhẹ nhàng khi cất bước hay không? Vong Linh có cảm thấy hối tiếc những ngày tháng còn trên Dương Thế hay không? đáng lẽ ra phải dùng thời gian đó để học hỏi, để trau giồi Trí Tuệ của mình, để nâng cao phẩm chất con người mình khi còn sống, và giúp cho Thần Thức sáng suốt lên để tìm về một cõi tốt đẹp như ý mình mong muốn, thật là Sai Lầm, thật là Đáng Tiếc!
Bài Pháp chấm dứt nơi đây kèm với một lời khuyên chân thành là, Vong Linh hãy cố gắng ăn năn sám hối về tất cả những lỗi lầm, những sai trái, những Tánh Xấu, những Thói Hư mà Vong Linh đã gây tạo ra trong suốt thời gian đắm chìm trong cơn nghiện ngập.
Đúng lý ra Vong Linh đã bước chân vào sự Si Mê Ma Túy thì phải nhận chịu một Thần Thức ngu đần trong loài Súc Sanh, nhưng trong 49 ngày đặc ân này, một sự Thành Tâm Thành ý sửa đổi Tánh Tình, biết trau giồi những Tánh Tốt, và hết lòng ăn năn hối lỗi về những điều lầm lỡ, những sai trái của mình, Thần Thức của Vong Linh chân thành rung động, chắc chắn rằng Vong Linh sẽ được giúp đỡ để trở lại cõi Ta Bà.
Ngày thứ 17:
Vong Linh nơi đây chắc chắn rằng không ai là không biết đến chữ RƯỢU! Có thể nói rằng, Rượu là một sản phẩm được tiêu thụ nhiều và có số bán ra tương đối cao so với tất cả mọi sản phẩm về gia dụng. Điều này ĐÚNG trong bất cứ một Quốc Gia nào trên Thế Giới; dù là nước lớn hay nước nhỏ, nước văn minh hay nước lạc hậu, nước giàu có hay nước nghèo kém, Rượu vẫn là một nhu cầu ưa thích của đa số mọi người dân. Người giàu thì uống rượu ngon, pha chế cầu kỳ, mắc tiền; đối với người nghèo thì bất cứ cái gì có thể làm cho lên men được, tạo nên một độ nồng, và nhất là cho được một cảm giác say say, lâng lâng, đều được gọi đó là Rượu cả.
Trên Thế Giới có biết bao nhiêu loại rượu được pha cất tùy theo khẩu vị, tùy theo phong tục, tùy theo chất chính yếu dùng để ủ rượu, tùy theo phương cách khác nhau của từng Quốc Gia.
Dài dòng để cho Vong Linh thấy rằng, trong khi Ma Túy là "vật quốc cấm", bất cứ người dân nào sở hữu Ma Túy cũng đều bị nghiêm phạt Tiền và Tù, còn Rượu thì được xem như là nhu yếu phẩm, được phép mua bán và tích trữ.
Câu hỏi được đặt ra là, điều này có chánh đáng hay không?
Trở về với 5 nguyên tắc căn bản của cuộc sống làm Người mà Đức Bổn Sư Thích Ca mâu Ni Phật đã chọn để làm Ngũ Giới Cấm cho hàng Phật Tử tại gia, thì Giới Cấm thứ 4 chính là Không Uống Rượu. Tại sao Đức Bổn Sư lại khuyên mọi người không nên uống rượu?
Thử hỏi, say sưa xuất phát từ đâu? Chính là từ ở Tánh Tham..... Tham uống! Nguồn gốc của Tánh Tham là gì? Chính là cái Muốn! Muốn cái gì ở sự say sưa? Muốn thỏa mãn Dục Vọng của mình!
-
Một người mang một hay nhiều ẩn ức gì đó ở trong lòng, cảm thấy ngại ngùng khi thổ lộ, một vài ly rượu giúp họ hừng chí, gia tăng can đảm để giải tỏa nỗi niềm riêng. Giải tỏa lần thứ nhất, giải tỏa lần thứ 2, sang đến lần thứ 3 thì việc uống rượu đã trở thành thói quen rồi. Một người chồng muốn nặng nhẹ vợ mình, chỉ cần nhấp một vài ly rượu, lấy cớ say, không còn biết gì hết, nên mặc tình thóa mạ hay hành hung vợ mà không một chút nương tay hay nghĩ suy.
-
Không ưa thích ai, cứ mượn rượu giải sầu, khi say rồi thì tha hồ chưởi bới, nặng nhẹ mà không sợ người ta phản công lại, vì đâu có ai đi tranh chấp với người đang say.
-
Giả bộ say sưa mới có thể làm những hành động sàm sỡ, dâm ô với người khác được.
-
Lấy cớ say sưa, lỡ tay gây thương tích cho người mình không ưa thích, hoặc hơn thế nữa, cướp đi sanh mạng của một người.
-
Những toán quân cảm tử lúc nào cũng nhấp vài ly rượu cho ngà ngà say để khơi dậy lòng can đảm, sự hận thù khi xông trận.
-
Từ Chính Trường cho đến Thương Trường, tất cả những thỏa hiệp, những quy ước đều có bóng dáng của chai rượu; có rượu vào thì lời nói mới mạnh mẽ, phản ứng mới nhanh nhẹn, hành động mới lẹ làng!
-
Sau một ngày làm việc mệt nhọc, tụ họp nhau ở Bar rượu, ở các quán rượu bên đường để cùng nâng ly, nâng lon cho đến khi say mèm, không còn cất nhắc nổi khỏi cái bàn, không còn màng đến thế sự chung quanh mình, vợ cũng quên, con cũng quên, gia đình cũng không nhớ, và quên luôn cả chính bản thân mình.
- Những cuộc họp mặt trong làng, trong xóm, hay trong gia đình, trong dòng họ, là dịp để chén tạc chén thù, chén mời qua, chén mời lại cho thỏa lòng, thỏa dạ. Rồi sau đó thì lời qua, tiếng lại, tiếng nặng, tiếng nhẹ, làm mất lòng nhau, làm đau lòng nhau, sinh ra thù oán, không nhìn mặt nhau. Tất cả cũng chỉ một chữ SAY!
Thời Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế, cái độ say sưa của con người chưa có lên cao tột, tuy rằng cũng đã làm những điều trái đạo, những điều không thích hợp với tư cách Con Người. Dân thì nghèo, cơm không đủ ăn ngày 2 bữa, áo quần không lành lặn, cuộc sống lầm than, thế mà có được đồng nào thì cứ mua rượu uống, uống đến say sưa, không còn tỉnh trí, những cảnh đánh vợ, đập con, gia đình không khác chi cái địa ngục, cứ tiếp diễn hằng ngày.
Rồi thì say sưa đưa đến việc chưởi bới nhau, thóa mạ lẫn nhau, đập lộn nhau, kéo nhau lên đến cửa quan để xét xử. Bổn cũ cứ soạn lại, hết ngày này sang đến ngày khác, còn đâu thì giờ để làm việc, để nuôi sống gia đình. Đức Bổn Sư đã chứng kiến những cảnh tang thương, đổ vỡ vì Rượu, cho nên Ngài đã chân thành khuyên Chúng Sanh không nên uống rượu.
Thời nay thì sao? Nền văn minh vật chất càng lúc càng lên cao, muốn gì cũng có, từ đồ ăn thức uống đến mọi thứ đồ gia dụng trong nhà, những sản phẩm làm đẹp, làm gia tăng sức khỏe, gia tăng kiến thức, những trò chơi giải trí thuộc mọi khía cạnh, những sản phẩm văn hóa từ thơ văn, hội họa, kiến trúc, thể thao, đến nữ công gia chánh, thêu thùa may vá....vv...vv..nhất nhất thứ gì cũng có cả!
Thế nhưng, càng văn minh, đời sống vật chất càng lên cao, tinh thần con người càng lụn bại. Giá trị tinh thần không còn được chắt chiu, gìn giữ. Con người sống buông thả, chiều theo dục vọng, thích xoa dịu tự ái và chạy theo thị hiếu.
Thế hệ Già, Lớn Tuổi không làm gương cho đám con cháu mình, cứ tha hồ hưởng thụ vì sợ rằng mình không còn đủ ngày tháng để vui chơi.
Thế hệ Trẻ, đa số không cưỡng được sự cám dỗ của đời sống vật chất, của khoa học kỹ thuật ngày một lên cao; thú vui cứ thay đổi mãi không ngừng, tạo nên một sự kích động đáng kể cho người chơi.
Rượu và Ma Túy là những chất xúc tác giúp cho Thế Hệ Già lẫn Trẻ hòa mình vào cuộc chơi thâu đêm suốt sáng, không hề biết mệt mỏi. Rượu càng ngon, ma túy càng phê, người càng lâng lâng, thả hồn vào cơn say sưa, trời cũng quên, đất cũng không còn nhớ, mặc cho Đất Trời cứ quay, hồn mình cứ bay bổng.....bay bổng...cho đến khi ngoảnh nhìn lại thì thấy thân xác mình đang nằm sóng sượt dưới đất, máu me chan hòa, bất động, chiếc xe tan nát. Một ngày trôi qua, biết bao nhiêu tai nạn lưu thông xảy ra trên xa lộ, trên đường phố, do những tài xế say ma túy hay say rượu gây nên.
Những tai nạn chết người này không những xảy đến cho chính đương sự, mà còn làm vạ lây cho những người vô tội khác, khiến cho họ hoặc tử vong, hoặc bị thương tật suốt cuộc đời.
Có những kẻ say sưa đến quên đường về, say sưa đến té ngã giữa đường phải kêu gọi cấp cứu, say sưa đến nội tạng của mình muốn tan nát ra, thế mà cũng vẫn không quan tâm.
Việc say sưa không chỉ giới hạn ở Nam Giới, mà còn lan tỏa ra cho Nữ Giới nữa. Số lượng rượu được nữ giới tiêu thụ thật không thua của nam giới chút nào cả. Số lượng khách nữ ở các bar rượu cũng tương đương với số lượng khách nam.
Phái nam say sưa đã làm mất đi tư cách của mình khá nhiều, việc say sưa của phái nữ lại càng đáng nói nhiều hơn nữa. Khi hơi men đã bốc lên rồi thì mặc tình cho ai đó muốn vày vò thân xác mình cũng được cả, lý trí đâu còn sáng suốt để có thể nhận ra những điều sàm sỡ đối với mình.
Hình ảnh những người đàn bà vô gia cư nghiện ngập vẫn là những mũi tên xoáy vào tâm tư của người đồng phái. Người phụ nữ từ xưa đến nay vẫn mang Thiên Chức làm Vợ và làm Mẹ, cái bổn phận thiêng liêng đó ngày nay, không thể nào đặt vào cho một người say sưa, nghiện ngập, không còn đứng vững được nữa.
Dù là nam hay là nữ, người say sưa, nghiện ngập vẫn là những kẻ sống rất ích kỷ, hẹp hòi. Họ chỉ biết thỏa mãn dục vọng của mình, chỉ biết làm theo cái Muốn của mình, đầu óc rất nông cạn, chỉ nhìn gần mà thiếu cái nhìn xa, nghĩ suy rất thiển cận và sống thiếu chiều sâu.
Trong gia đình, nếu cả cha lẫn mẹ đều là những người suốt ngày lấy rượu và ma túy làm niềm vui riêng, thì quả thật là điều vô cùng bất hạnh cho những đứa con của họ. Những đứa trẻ này sẽ phải trải qua cảnh thiếu ăn, thiếu mặc, sẽ phải hứng chịu những trận đòn vô cớ khi cha mẹ chúng lên cơn ghiền mà thiếu rượu, thiếu thuốc. Tuổi thơ của chúng là những tháng ngày cơ cực, nghèo nàn, đôi khi không có một mái nhà, sống chui rúc dưới gầm cầu, xó hốc nào đó.
Những đứa trẻ nào có ý chí mạnh thì ráng sức vươn lên để ngoi khỏi vũng bùn lầy; những đứa trẻ có tinh thần yếu đuối, sẽ dễ dàng chấp nhận hoàn cảnh và lại tiếp tục theo vết chân của người sanh thành ra chúng. Từng thế hệ tiếp nối, nhưng là một Bổn Cũ Soạn Lại, khiến cho những trang giấy của cuộc đời không ghi lại điều gì mới mẻ cả, mà chỉ toàn là những vệt màu đen trên nền giấy trắng.
Thời đại văn minh, người giàu cũng say sưa, người nghèo cũng say sưa, đàn ông cũng say, đàn bà cũng say, thử hỏi Quốc Gia có tiến triển được hay không? Những nước hùng cường, giàu có, cũng còn những đầu óc "siêu trí tuệ" để đưa đất nước đến chỗ phồn vinh, còn các nước nhỏ bé, nghèo nàn, tài nguyên kém cỏi, người học cao hiểu rộng không có, nếu đa số dân chúng đều say sưa, nghiện ngập, lấy đâu ra nhân tài mà xây dựng đất nước? Không sớm thì muộn, cũng cam tâm làm Nô Lệ cho người, rồi từ từ cũng sẽ đi đến tình trạng diệt vong.
Hỡi Vong Linh, khi Vong Linh còn thân xác, là còn bị chi phối bởi cái Tánh rất nhiều. Cái Tánh Tham có thiên hình vạn trạng, biến hóa ra nhiều đối tượng, nhiều trạng thái khác nhau để lôi cuốn cái cảm xúc, cái dục vọng của Thân Xác. Vì Thân Xác của Vong Linh bị bao bọc bởi quá nhiều Tánh Xấu, cho nên đã không thể nào dễ dàng nhận ra được chân tướng của cái Tánh Tham, do đó mà tha hồ làm những chuyện không đúng, gây nên sự thiệt hại cho bản thân mình rất là nhiều.
Ngày hôm nay, Vong Linh đã hiểu rõ vì sao tôi làm lỗi? Và lỗi lầm đó đã gây tầm ảnh hưởng như thế nào đối với người chung quanh tôi? Đối với xã hội, đối với Quốc Gia đã cưu mang tôi?
Nếu Vong Linh không quyết tâm triệt tiêu cái tánh thích rượu chè, nhậu nhẹt, say sưa, thì Thân Xác Mới của Vong Linh sau này sẽ vẫn mãi mãi mang cái vết đen đó, cũng sẽ bổn cũ soạn lại, cũng sẽ trải qua những năm tháng dài nghiện ngập trong một cuộc đời ảm đạm, không có tương lai.
Ngày thứ 18:
Ngày hôm nay Vong Linh sẽ có dịp để hiểu qua "thế nào là những tội ác do Dâm Dục gây tạo nên"?
Dâm dục là gì? Đó chính là những Dục Vọng, những cái Muốn phát sinh ra do từ ở cái Dâm Tánh của mình.
1. Một người phụ nữ với cái cá tánh Bất Lương, trong đầu lúc nào cũng tính toan, sắp xếp những mưu mô để lường gạt kẻ khác. Với cái Dâm Tánh sẵn có, người đó sẽ không ngại ngùng gì mà lập kế Mỹ Nhân, đem sắc đẹp của mình, đem Thân Xác của mình để làm mồi nhử những kẻ có tiền, có tài sản, có danh vọng, có địa vị, có chức quyền, hoặc là có những cái mà người phụ nữ đó Muốn. Khi con mồi đã mê mẩn, đã đắm chìm trong sắc dục, đã sa hoàn toàn vào bẫy rập, đã không còn kiểm soát những tư tưởng, những hành động, những quyết định của mình được nữa, người phụ nữ sẽ ra tay thu đoạt tất cả những gì mà mình muốn, rồi sau đó sẽ cao chạy xa bay, để mặc cho kẻ si tình oán than, khóc hận cho sự mê muội của mình.
Cái kế sách Mỹ Nhân này sẽ được tiếp diễn từ nơi này sang nơi khác, hết con mồi này vô bẫy rập lại tới phiên con mồi khác. Cứ tuần tự tiếp diễn như thế, hoặc cho đến khi nào mưu mô bị vạch trần, bị sa vào lưới pháp luật, hay cũng có thể do Nhân Quả báo ứng mà người phụ nữ này gặp chuyện không may làm tan nát cả cuộc đời mình.
Cái Dâm Tánh cộng với Tánh Bất Lương, sẽ tạo nên một cái thế vẫy vùng thuận lợi cho cả phái Nữ lẫn phái Nam trong việc lường gạt Tình lẫn Tiền.
Chỉ cần nét mặt ưa nhìn, dễ thương, có chút ít sức thu hút hay một nhân dáng hào hoa, phong nhã, hoặc giọng nói quyến rũ, khéo léo, người đàn ông cũng đủ sức để đưa một người đàn bà giàu tiền lắm bạc, có quyền thế vào bẫy rập của mình.
Thông thường, những người đàn bà giàu có, sang trọng, hay những người đàn bà quyền thế, phần lớn lại là những người cô đơn, có nhiều ẩn ức, nhất là ẩn ức về sinh lý. Càng có quyền cao chức trọng, càng sang giàu, cuộc sống riêng tư của họ càng khép kín, họ càng xa rời cuộc sống bên ngoài. Tìm được người ý hợp tâm đầu để giải tỏa "nỗi niềm riêng", và nhất là biết kín tiếng để bảo toàn danh dự cho người quyền thế, chắc chắn rằng việc đáp đền sẽ không phải nhỏ!
Có tiền đầy túi, lại còn được hưởng nhiều đặc ân lớn, nhỏ, thế mà vẫn muốn bắt cá hai ba tay, lường gạt một lúc hai ba người....đến khi chuyện đổ bể ra thì tay trắng vẫn hoàn trắng tay!
Cũng có khi hạng đàn ông này chơi trò "đào mỏ", chuyên gạ tình những cô gái ngây thơ con nhà giàu có để moi móc tiền bạc, của cải; đến khi cảm thấy nguồn tài chánh cạn kiệt rồi, không còn gì để moi móc nữa thì chàng ta cao chạy xa bay.
2. Cái tội ác đáng kể nhất và nặng nề nhất do Dâm Dục gây tạo nên, đó chính là ẤU DÂM.
Hằng ngày, trên toàn Thế Giới, có vô số những vụ bắt cóc trẻ thơ, trai có, gái có, để làm công cụ cho những tổ chức chuyên về Tình Dục. Các tổ chức này cung cấp trẻ thơ đủ mọi lứa tuổi cho những kẻ có đầu óc bệnh hoạn, thích làm tình với những đứa bé.
Trẻ thơ cũng được đưa đến những phim trường để quay những phim ảnh về Tình Dục. Kể sao cho hết những đọa đày mà một đứa bé ở tuổi mới lớn phải hứng chịu, những sự vày vò trên thân xác non nớt, những tiếng kêu la, rên siết đã trở thành vô vọng trước một lũ Quỷ không còn Nhân tính, hoàn toàn chai đá.
Trẻ thơ không khác một món đồ chơi, ai thích chơi thì cứ lôi ra, chơi kiểu nào cũng được, chán chê rồi thì vứt bỏ. Trẻ thơ bị thương tổn từ thể xác cho đến tinh thần, đôi khi sự thương tổn đó lên cao tột khiến cho đứa bé trở thành ngớ ngẩn, mãi mãi không còn tìm lại được cuộc sống bình thường với những cảm xúc của một con người đúng nghĩa.
Trẻ thơ được chuyền tay qua nhiều tổ chức, người ta bán chúng như bán một đồ vật, người ta ép chúng phải hút cần sa, ma túy để chúng hoàn toàn lệ thuộc vào tổ chức, không thể nào trốn thoát đi đâu được.
Khi cơ thể của các trẻ thơ này đã nảy nở toàn diện thì chúng sẽ được đưa sang các động mãi dâm để phục vụ. Nơi đây thì quyền hạn của các Tú Bà, của các Ma Cô rất cao, lời của họ là lịnh, bảo sao phải làm vậy, cưỡng lại thì roi vọt và nhất là khi cơn nghiện hoành hành thì cái gì cũng gật đầu chấp nhận.
Cha Mẹ của các đứa trẻ này chỉ biết gia sức đi tìm, đâu có ngờ rằng con mình đang đắm chìm trong vũng bùn tanh hôi, tương lai mù mịt, không có nẻo đi về, và không còn chút hy vọng nào để gặp lại Mẹ Cha.
3. Tệ nạn bắt cóc trẻ thơ vô cùng nghiêm trọng thì tệ nạn buôn người cũng kinh khủng không kém !
Hiện nay, tệ nạn này đã trở thành một vấn đề khá lớn lao, làm nhức đầu những nhà lãnh đạo các Quốc Gia trên toàn Thế Giới.
Những Quốc Gia nghèo kém lại là nơi mà bọn buôn người hoành hành nhiều nhất, chẳng qua là vì cuộc sống quá nghèo nàn, cơ cực, chỉ cần một lời dụ dỗ tìm được nơi có công ăn việc làm, bảo đảm một đời sống tốt đẹp hơn, có cơm ăn áo mặc đủ đầy, thậm chí bọn buôn người chỉ cần chi ra chút ít tiền hay một vài đồ vật là xem như việc lường gạt của họ thành công.
Những phụ nữ đi theo bọn này với tất cả niềm hy vọng tràn trề, mong mỏi sẽ kiếm được nhiều tiền để lo cho gia đình. Họ đâu có ngờ rằng, một đi không bao giờ trở lại, và thân xác họ biết đâu chừng sẽ bị vùi lấp ở một nơi xứ lạ, quê người nào đó.
Tùy vào nhu cầu ở mỗi nơi mà các phụ nữ này được bán ra, thông thường là cho các động mãi dâm, cho các tổ chức vận chuyển ma túy, họ dùng phụ nữ để nhữ những viên chức ở biên phòng, làm kế mỹ nhân để không ai chú ý đến bọn vận chuyển ma túy qua biên giới.
Các phụ nữ này còn bị bán ra cho những tổ chức làm phim kích dục, người ta mặc tình vày vò thân xác của các phụ nữ, kiểu gì cũng có, kể cả làm tình với thú. Những phim này được bán ra cho những kẻ có đầu óc bệnh hoạn, những kẻ bạo dâm, những kẻ mà gần như không còn Nhân Tính nữa.
Những phụ nữ này còn bị bán cho những gia đình có nhiều đàn ông, từ bậc ông, xuống đến bậc cha, xuống đến bậc con, cũng có khi đến bậc cháu nữa. Tóm lại là, một người phụ nữ phải phục vụ Tình Dục cho nguyên cả một gia đình có nhiều thế hệ đàn ông trong đó.
Những phụ nữ rơi vào tay của bọn buôn người đều bị ép buộc nghiện ma túy để không thể nào trốn thoát được, tất cả giấy tờ tùy thân cũng bị tịch thu và cất giữ, do đó có muốn trốn cũng không phải dễ.
Những cô gái nào có nhan sắc sẽ đặc biệt phục vụ cho những tên đầu não; những tên này thuộc hạng đàn ông chuyên sống trên thân xác của đàn bà, chúng lợi dụng sắc đẹp đó để tha hồ trục lợi, mặc tình thâu tóm tiền bạc qua thân xác của các cô gái này.
4. Một tội ác không nhỏ do Dâm Dục gây tạo nên, đó chính là "Sự Cưỡng Hiếp".
Hằng ngày, có biết bao nhiêu cô gái bị cưỡng hiếp dưới nhiều hình thái khác nhau: dụ dỗ, bắt cóc, phục rượu và ma túy, giả vờ kết bạn, ra tay nghĩa hiệp cứu người, giúp người hoạn nạn.....Tuy nhiên, đáng ghê tởm nhất chính là những trường hợp mà Cha cưỡng hiếp Con Gái nhiều lần đến mang thai nghén. Thật sự là hoàn toàn không còn Nhân Tính nữa!
Ngoài ra còn có những kẻ được mệnh danh là "Quỷ Râu Xanh", chuyên cưỡng hiếp người hằng loạt, đây mới đúng là Quỷ đội lớp Người, đi tới đâu là gieo rắc tang thương đến đó, khiến cho phụ nữ từ già đến trẻ cứ nơm nớp lo sợ khi nghe đến tên của chúng.
5. Dùng quyền lực để buộc Nữ nhân viên cấp dưới của mình nuông chiều Tình Dục hay có những hành vi quấy nhiễu tình dục đối với Phụ Nữ, cũng có trường hợp ngược lại là Nữ nhân viên gạ gẫm Tình Dục với cấp chỉ huy để mong được thăng chức hay được thăng thưởng.....Tất cả những việc làm thiếu minh bạch này đều bắt nguồn từ ở cái Tánh Bất Lương trong một con người chứa nhiều Dâm Tánh.
Hỡi Vong Linh, Vong Linh đã được vạch rõ cho thấy tất cả những hành vi được gọi dưới cái tên chung là "tứ đổ tường", tức là những hành vi này có thể xô ngã được những thành trì vững chắc tạo dựng nên cuộc đời, nên sự nghiệp, nên mái ấm, nên bản thân của Thân Xác của Vong Linh, trong những ngày còn trên Dương Thế.
Tất cả những hành vi này đều bắt nguồn từ ở Tánh THAM.
Vì quá tham ăn, tham uống nên rượu chè say sưa, be bét, đến không còn đứng vững nữa, đến quên cả đường về nhà, cho đến gây ra tai nạn làm tổn thương hay làm thiệt mạng người vô tội.
Vì ham muốn trải nghiệm thế nào là sự kích thích cao tột? Thế nào là cái cảm giác phiêu phiêu phưỡng phưỡng, đưa hồn mình lên tận mây xanh? Cho nên đã không ngần ngại làm quen với ma túy. Một lần, rồi hai lần, rồi ba lần.... để rồi sau đó, buộc chặt đời mình với ma túy, thấm thía với cơn nghiện ngập và xót xa nhìn cuộc đời mình cứ lăn dần xuống hố sâu vực thẳm.
Vì ham tiền cho nên lao đầu vào những cuộc đỏ đen. Con bài, canh bạc có một sức quyến rũ lạ kỳ khiến cho người chơi khó kềm chế lòng mình, khó ngoảnh mặt quay lưng. Càng thua càng miệt mài chơi, cho đến khi trắng tay, trở thành kẻ lang thang vất vưởng, sống nương nhờ vào sự bố thí của những người tốt bụng.
Những cái Muốn phát sinh ra từ ở Dâm Tánh đã gây tạo biết bao nhiêu tội ác khiến cho vô số Vòng Nghiệp Lực tạo thành.
Rượu chè, ma túy, cờ bạc, dâm dục, 4 thứ này có một mối tương quan vô cùng chặt chẽ, đồng phát khởi từ ở Tánh THAM, nhưng cái rốt ráo vẫn là một sự Ngu Si, Mê Muội và dễ dàng đưa Thần Thức vào trong thân xác của Loài Súc Sanh.
Vong Linh hãy tư duy cho thật kỹ để nhận ra sự sai lầm vô cùng tai hại của mình đối với người Đồng Loại ở kiếp mới vừa qua. Hãy đem hết tấm chân tình của mình mà Sám Hối, Ăn Năn, và đồng thời phát nguyện triệt tiêu những tánh xấu gây tạo nên từ ở tánh Tham, có thể đưa Thần Thức của Vong Linh đến chỗ đọa đày trong thân xác Thú.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 19:
Ngày hôm nay, Vong Linh sẽ được biết đến một Tánh Xấu mà gần như Chúng Sanh nào của cõi Ta Bà cũng mắc phải, không ít thì nhiều, và chính cái tánh xấu này đã gây tạo nên vô số Nghiệp Lực giữa các Chúng Sanh với nhau, đó chính là TÁNH THỊ PHI!
Ngày còn sự sống, Thân Xác của Vong Linh đã có từng thị phi ai chưa?
Thật sự ra, Thị Phi, theo đúng nghĩa của nó, chỉ có nghĩa là Phải hay Trái, hoặc Tốt hay Xấu, tuy nhiên, từ sự phẩm bình phải trái, đúng sai hay tốt xấu, đã dẫn dắt câu chuyện tiến lần đến việc chê khen, gièm siểm vô căn cứ về việc làm hay hành động, lời nói, cử chỉ, thậm chí đến tư cách, đến đời sống riêng tư của người bị phẩm bình.
Thông thường, người ta chỉ nói về cái Tốt của mình, chớ không ai đem cái xấu của mình ra để nói; nhưng, lại rất mạnh miệng và bạo mồm khi đem cái xấu, cái dở, cái không hay của người khác ra để phê phán, để vạch vòi, để chỉ rõ cho mọi người cùng thấy, cùng biết: đó chính là Thị Phi!
Một người không có tánh xấu mà vẫn gán cho họ một tánh xấu, người đó không có Tâm xấu, mà vẫn đặt để điều không tốt đẹp cho họ. Tại sao phải làm như vậy? Chẳng qua là để hạ người đó xuống và nâng mình lên cao: đó chính là Thị Phi!
Việc không phải của mình mà mình vẫn thích bàn luận, thích phê phán: đó chính là Thị Phi!
Hăm hở muốn "biết" việc nhà người, biết càng nhiều càng tốt, xem như đó là thành quả tốt đẹp mà mình thu hoạch được: đó chính là Thị Phi!
Nói tóm lại, tất cả những gì không thuộc về mình mà mình nói đến, bàn luận đến; nói về một kẻ khác, nhưng trong lời nói đó hàm chứa một thâm ý là cố tình hạ nhục kẻ mà mình nói đến: đó chính là Thị Phi!
Người ta vui khi thị phi và hăng hái tranh luận chuyện thị phi.
Thị Phi là do Tâm khởi lên, tác động vào ý, và qua trung gian của miệng, triển khai ý tưởng không lành. Tuy nhiên, vẫn luôn luôn có sự ủng hộ và cổ võ của "cái Tánh thích Thị Phi".
Đa số những nghiệp chướng mà chúng sanh đã gây tạo nên, đều xoay quanh hai chữ "Thị Phi".
Thị Phi rất dễ dàng dẫn đến sân hận và đóng vòng nghiệp lực trong nháy mắt.
Trong cuộc sống hằng ngày, khi giao tế với nhau, vì Thân Xác của Vong Linh vướng vào Thị Phi cho nên không giữ được mối giao hảo lâu dài; đời tư của nhau không được tôn trọng, cứ chờ cơ hội là hé lộ, đưa tin thất thiệt, tạo nên sự phẫn nộ, khiến cho mối giao tình càng ngày càng xa cách.
Tánh Thị Phi là một tánh xấu vô cùng cực, khiến cho Thân Xác của Vong Linh, ngày còn trên Dương Thế, phải chịu muôn điều khổ lụy, gây tạo nhiều nghiệp chướng, làm gia tăng phiền não và đánh mất tình thân ái.
Vong Linh hãy ghi nhớ rằng, gần như 90% Nghiệp Chướng gây tạo nên đều có dính líu đến cái miệng, mà cái miệng chính là nơi khai mở tất cả những biến chuyển của cái TÂM; khi Tâm biến chuyển theo một chiều hướng xấu, được sự tích cực hưởng ứng của Tánh Thị Phi, chắc chắn rằng Nghiệp Chướng sẽ được tạo nên.
Tánh Thị Phi xuất phát từ ở những tánh xấu như Ganh Tị, Ghen Ghét, Sân Hận, Tự Ái. Do từ ở những tánh xấu đó mà Thân Xác của Vong Linh đã không ngần ngại đặt điều, thêu dệt, thêm mắm dặm muối, bóp méo sự thật câu chuyện, miễn sao thỏa mãn được Tự Ái của mình, hoặc mang đến cho mình nhiều lợi lạc.
Nguyên tắc căn bản của sự giao tế là sự Thành Thật, một khi thiếu mất tính chất này rồi thì mối giao hòa khó lòng đứng vững, cho nên sinh ra nghi kỵ lẫn nhau, mang đến cho nhau nhiều phiền não, cuộc sống của cả đôi bên sẽ giảm mất đi sự thoải mái, và tình tương thân tương ái sẽ phai nhạt dần.
Vong Linh hãy tích cực triệt tiêu Tánh Thị Phi này, nên cố gắng tập giữ Tâm Bình, biết Lắng Nghe để dễ dàng phân biệt những điều đúng sai, hay phải trái, từ đó, mọi lời nói thốt ra cũng đều mang tính chất vô tư, khách quan và trung thực.
Trở lại kiếp Người mà còn mang cái tánh Thị Phi quá sâu đậm thì không khác gì tự tay Vong Linh cột những tảng đá nặng chung quanh Thân Xác Mới của mình để khiến cho Thân Xác đó cứ chìm dần trong vũng bùn lầy, khó lòng cất nhắc lên nổi.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt, Vong Linh hãy hồi vị và cố gắng tư duy để chỉnh sửa lại Tâm - Ý - Tánh của mình.
Ngày thứ 20:
Hỡi Vong Linh (Tên họ...Pháp Danh…), Vong Linh đã từng tới lui cõi Ta Bà nhiều lần, vậy chớ Vong Linh đã học được những gì nơi cõi Ta Bà?
Nghiệp Lực dẫn đường, đưa Thần Thức của Vong Linh trở lại cõi Ta Bà với mục đích gặp lại "mặt đối mặt" các Oan Gia Trái Chủ đúng duyên của mình để thanh toán sòng phẳng những món nợ từ quá khứ, và đồng thời, Thân Xác của Vong Linh cũng phải đối diện với những Nghiệp Lực Bài Học phát sinh ra từ ở những Tánh Xấu; những tánh xấu này đã hiện hữu, đã đồng hành với Thần Thức của Vong Linh từ Quá Khứ cho đến kiếp mới vừa qua. Trải qua nhiều Kiếp Người, nếu những Tánh Xấu đó không được cải thiện, không được sửa chữa, thì mãi mãi Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ luôn chịu nhiều sự bực mình, sự lo âu, sự đau đớn, sự uất ức, sự mất mát, sự sợ sệt, sự không vừa ý..v..v..
Tùy vào tính chất của mỗi Tánh Xấu mà Thân Xác của Vong Linh sẽ tiếp nhận được một hay nhiều cảm giác vừa nêu trên.
Thân Xác của Vong Linh có thể thường xuyên nhận chịu những oan tình, đó chính là kết quả của cái Tánh thiếu Lắng Nghe, thiếu Sự Cảm Thông, thiếu Sự Tha Thứ.
Thân Xác của Vong Linh có thể thường gặp khó khăn khi kêu gọi sự giúp đỡ của ai đó, hoặc khó lòng nhận được một sự giúp đỡ tích cực, đó là kết quả của cái Tánh thiếu Chia Sẻ, thiếu Tương Trợ, thiếu Sốt Sắng, thiếu Từ Bi.
Thân Xác của Vong Linh cũng hay bị kẻ khác dèm pha, đặt điều nói xấu, vu oan giá họa, đó là cái giá phải trả cho cái Tánh Thị Phi mà Thần Thức của Thân Xác đã liên tục mắc phải từ trong kiếp quá khứ.
Ngay cả cái Tánh hay cằn nhằn, càu nhàu, nếu đã trở thành Tập Khí rồi, có nghĩa là không được chỉnh sửa từ nhiều kiếp trong quá khứ, cứ tái đi tái lại, và khi đến Hiện Kiếp, cái tánh xấu này tuy nhỏ nhoi, không nặng nề, nay bỗng trở thành to tát hơn khi nó biến thể thành ra Tánh Sân. Khi đó cuộc đời của Thân Xác của Vong Linh mới thực sự gặp nhiều trắc trở từ ở Tánh Sân. Cho nên không bao giờ xem thường hay bỏ qua bất cứ một Tánh Xấu nào dù rằng rất là nhỏ nhặt.
Cứ mỗi Tánh Xấu không được sửa chữa, không được uốn nắn, giùi mài, cứ để trôi qua theo ngày tháng, in đậm nét trong Tâm Thức, thì nó sẽ trở thành những viên đá sỏi Nghiệp Lực, ngăn chận luồng nước chảy trong cuộc đời, khiến cho kiếp kế tiếp của Vong Linh không thể nào xuôi chèo mát mái được.
Vì không có Đối Tác Sân Hận cho nên Vòng Nghiệp Lực giữa cá nhân với nhau không hiện hữu, nhưng, người mang cái Tánh Xấu vẫn tạo nên sự khó chịu cho người chung quanh vì cái Tánh Xấu đó, điều đó có nghĩa là, người mang một Tánh Xấu nào đó đã gieo Hạt Nhân không tốt của cái Tánh Xấu đó ở những nơi mà người đó hiện diện. Đã có từng gieo Nhân thì Quả Trái sẽ mọc lên, và quả trái đó chính là những sự việc hay những cảm giác không Hay, không Đẹp, không Vừa Ý xảy đến với cuộc đời của Thân Xác của Vong Linh.
Vì luôn đối diện với Nghiệp Lực, nghiệp lực cũ lẫn nghiệp lực mới, mà Thân Xác của Vong Linh đã không ngừng học hỏi và cũng đã không ngừng tranh đấu.
Học hỏi cái gì?
- Học trải nghiệm với những thương đau, khổ hận của cuộc đời.
- Học nếm qua những hương vị mặn, ngọt, cay, nồng của cuộc đời.
- Học xông pha, chiến đấu với những chông gai, cạm bẫy của cuộc đời.
- Khi không còn chịu đựng nỗi nữa thì học vùng lên, học phản kháng.
Tranh đấu cái gì?
Tranh đấu với chính bản thân mình!
Gây tạo ra Nghiệp Lực chính là do từ ở những Tánh Xấu, những tánh xấu đã được chấp chặt đến trở thành Tập Khí từ nhiều đời nhiều kiếp, sang đến hiện kiếp, theo trào lưu tiến hóa, Tánh Xấu càng tạo thêm chớ không giảm bớt. Vì vậy mà những bài học nghiệp lực cứ liên tục xảy ra trong cuộc sống, tạo nên những chông gai, những thử thách trên đường đời.
Do từ ở những khó khăn, những trắc trở, những gập ghềnh của con đường Đời, người ở cõi Ta Bà bắt buộc phải chiêm nghiệm bản thân của mình để truy tìm lý do vì sao mà mình không thể nào có được một cuộc đời bình an, không sóng gió?
Cái lý do đó chính là TÁNH XẤU.
Từng tánh xấu thể hiện trong từng khó khăn, trong từng trắc trở, vì vậy mà phải triệt tiêu chúng một cách thẳng tay, không thương xót, chém chặt cho hết những tánh xấu dù nó chỉ nhỏ như hạt cát.
Tuy nhiên, người của cõi Ta Bà đã xa rời cái nguyên tắc căn bản của cuộc sống làm Người và đó cũng chính là cái nguyên tắc căn bản của Nghiệp Lực, đó là: muốn khắc phục khó khăn, muốn chiến đấu với chông gai, trắc trở, bắt buộc phải dùng đúng Khí Giới, đó chính là TÁNH TỐT! Chỉ có những Tánh Tốt mới được xem là những vũ khí thích hợp để toàn thắng.
Chỉ có Tình Thương mới xóa được Hận Thù.
Chỉ có Lòng Nhân Hậu mới làm cho kẻ hung hăng điên cuồng vì Lợi Danh thức tỉnh.
Chỉ có Tình Tương Thân Tương Ái mới làm cho con người xích lại gần nhau.
Chỉ có sự Khoan Dung mới cảm hóa được con người Bất Thiện.
Chỉ có Hỷ Xả mới làm cho Tự Ái không nổi dậy, ngăn chận ngọn sóng thần Sân Hận có thể làm tiêu hủy tất cả mọi vật.
Còn rất....rất...là nhiều những thương đau, những hận tủi, những bất hạnh, những điều không may vô cùng cực của cuộc đời mà chỉ có Vũ Khí Tánh Tốt mới có đủ khả năng để triệt tiêu một cách trọn vẹn sự công phá của những điều bất an trong cuộc sống.
Hỡi Vong Linh,
Bức tranh tổng thể của cõi Ta Bà đang được trình bày lên cho Vong Linh chiêm nghiệm. Vong Linh cũng đã trải nghiệm rất nhiều về tất cả những thương đau trong cuộc đời của kiếp mới vừa qua. Hãy lợi dụng thời gian đặc ân này để mà trui rèn, tôi luyện, giùi mài tất cả những Tánh Tốt, đồng thời hãy chôn vùi thật sâu, diệt cho tận gốc rễ toàn bộ những Tánh Xấu đã bao phen làm cho Vong Linh điêu đứng, khổ sầu.
Dù cho Thân Xác của Vong Linh có hưởng được Phước dư, cho nên được sống trong nhà cao cửa rộng, trong nệm ấm chăn êm, với kẻ hầu người hạ, Thân Xác đó cũng vẫn không thoát được những cảm giác bất ổn trong tâm tư mình, mơ hồ vẫn cảm nhận được một điều gì đó không trường tồn, không chắc chắn, và lúc nào cũng chờn vờn để tấn công mình. Tất cả những điều bất ổn đó chính là một sự báo động về những Nghiệp Chướng mà Thân Xác sẽ phải đối diện sau khi Phước dư đã không còn nữa.
Đối với Vong Linh nào kém Phước, chắc chắn rằng cuộc đời cũng đã trải qua nhiều thương đau, nhiều khóc hận.
Do đó, Vong Linh hãy trang bị cho mình càng nhiều càng tốt những Vũ Khí Tánh Tốt để chuẩn bị chống lại sự tấn công của những Nghiệp Lực, lúc nào cũng chực chờ ngày trở lại cõi Ta Bà của Vong Linh.
Nên nhớ rằng, Nghiệp Lực do chính mình tạo ra thì phải sử dụng đúng Khí Giới do chính mình tôi luyện để mới có thể tiêu diệt được Nghiệp Lực.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 21:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ...Pháp Danh...),
Cõi Ta Bà là nơi mà Vong Linh đã từng đến, đến rồi đi, đi rồi lại đến, không biết bao nhiêu lần, số nhiều không kể xiết! Cứ mỗi lần hiện diện trên cõi Đời là sẽ phải đối diện với mỗi Hoàn Cảnh khác nhau, mỗi Môi Trường khác nhau từ Địa Lý cho đến Gia Đình, đến Bà Con Dòng Họ, cho đến Xã Hội và luôn cả Chủng Tộc nữa.
Đã biết rằng, Sống là phải tranh đấu, tranh đấu với chính bản thân mình, tranh đấu với Hoàn Cảnh, với Môi Trường, với Cảnh Huống, và với chính những Đồng Loại của mình. Trong quá trình tranh đấu đó, đã phát sinh ra hằng loạt Tánh Xấu lẫn Tánh Tốt.
Cho đến cuối một Đời Người, nếu sở hữu quá nhiều Tánh Xấu thì chắc chắn rằng, căn cứ trên sự tương quan giữa Nhân và Quả, cái kết quả của một kiếp Người sẽ là một chuỗi Nghiệp Lực nặng nề do từ ở việc gây tạo nhiều Oan Trái với người Đồng Loại qua những Tánh quá Xấu Ác của mình.
Nếu cũng trong quá trình tranh đấu đó, con người biết đối xử với nhau trong sự Hòa Nhã, biết Cân Nhắc từng lời nói, từng cử chỉ cũng như hành động, biết Lắng Nghe và Tôn Trọng ý kiến của người mình giao tế, thì suốt cuộc đời của người đó cho đến phút cuối, đời sống Tinh Thần sẽ thoải mái, ít phiền lụy, ít bực dọc, và cũng có thể không hề nghe những lời nặng nhẹ, xỉ vả của kẻ khác đối với mình.
Từng kiếp Người trôi qua, những Tánh Tốt cũng như những Tánh Xấu đều được khắc ghi và gìn giữ trong Tâm Thức. Thân Xác HOẠI nhưng Thần Thức luôn vẫn còn đó, vì vậy mà Tâm Thức luôn luôn là kho chứa và gìn giữ vĩnh viễn những Tánh Tốt lẫn Tánh Xấu của một người, dù cho Thần Thức đó trải qua nhiều Đời, nhiều Kiếp, dưới dạng thức Con Người.
Vong Linh phải nên hiểu rằng, nếu Tánh Tốt tích tụ càng nhiều, sẽ làm cho Tâm Thức càng rạng ngời lên, và Thân Xác đó cũng được hưởng lây sự Rạng Ngời đó.
Những Tánh Xấu, qua nhiều kiếp Người, được thể hiện dưới hình thức TẬP KHÍ; càng có nhiều Tập Khí, càng đón nhận nhiều Bài Học Nghiệp lực, Thân Xác càng trở nên "nặng nề" hơn, điều đó hiện rõ qua những thăng trầm của Cuộc Đời một Con Người.
Tất cả những Tánh Tốt lẫn Tánh Xấu sở hữu được qua từng Kiếp Người, tạo nên một nền tảng vững chắc cho đời sống Tâm Linh của một Con Người. Dù ở bất cứ Hoàn Cảnh Địa Lý nào, dù thuộc về một Chủng Tộc nào, cái nền tảng đó vẫn luôn hiện diện. Đó chính là NỀN TẢNG LƯƠNG TÂM.
Nếu Tánh Tốt được triển khai thì Lương Tâm sẽ hoan hỉ và rực sáng. Nếu một hay nhiều Tánh Xấu cứ liên tục phát khởi thì Lương Tâm sẽ mờ dần và tắt hẳn.
Nhờ vào cái Nền Tảng Lương Tâm này mà một Con Người biết phân định Phải, Trái, Đúng, Sai, nên làm hay không nên làm.
Thông thường, một Thân Xác Người kéo dài sự sống vỏn vẹn không quá 100 năm, trong khi Thần Thức thì không "HOẠI", cứ tiếp tục thay đổi hết Thân Xác này đến Thân Xác khác, mang cái Tâm - Ý - Tánh "điều khiển" hết Kiếp Người này đến Kiếp Người khác. Toàn bộ những Tánh Tốt lẫn Tánh Xấu của một Con Người đều được khắc ghi và lưu trữ trong Tâm Thức. Trên tuyến đường "di chuyển" của Thần Thức, cứ mỗi trạm dừng chân là Thần Thức lại "trút" hết những Tánh vừa Tốt vừa Xấu vào cho Thân Xác đó, và tạo nên tầm ảnh hưởng rộng lớn cho Thân Xác.
Khi lìa Thân Xác ra đi, Thần Thức cũng không quên mang theo một loạt các Tánh Tốt, Xấu của chính Thân Xác đó sở hữu, càng làm cho cái Nền Tảng Lương Tâm lớn rộng thêm ra.
Chính vì cái tầm quan trọng của Nền Tảng Lương Tâm, bao gồm những Tánh Tốt và Tánh Xấu, có thể dẫn dắt Thân Xác Mới của Vong Linh hoặc TIẾN LÊN hay CHÌM ĐẮM trong vũng lầy, Vong Linh bắt buộc phải hiểu thật rõ ràng thực chất của từng Tánh Xấu lẫn Tánh Tốt, để có thể đi đến quyết tâm triệt tiêu, xóa bỏ, hay phải giùi mài, trau chuốt?
Đã trải qua biết bao nhiêu lần đổi thay Thân Xác, Thần Thức của Vong Linh đã vô cùng hờ hững với việc chỉnh sửa Tâm - Ý - Tánh cũng như đã đem cái Tâm - Ý - Tánh "bệnh hoạn", xấu xa, yếu ớt để "điều khiển" hết Thân Xác này đến Thân Xác khác, do đó mà từng Kiếp Người đã qua, Thân Xác của Vong Linh khó có thể có được một cuộc đời Bình An, ít sóng gió, nói chi đến việc tu tập để Thăng Hoa!
Sau đây là những Tánh Xấu mà Vong Linh bắt buộc phải chiêm nghiệm từng Tính Chất một để khắc cốt ghi tâm triệt tiêu, hủy bỏ, để cho không còn hiện hữu trong Tâm thức nữa.
NHỮNG TÁNH XẤU
1. Tánh Tham:
Tánh Tham do từ ở cái gì? Do từ ở cái MUỐN, muốn quá nhiều, muốn Ăn, muốn Uống, muốn Đồ Vật, muốn Người, muốn Hạnh Phúc, muốn Sự Nghiệp, muốn Công Danh, muốn Tiền...Tất cả những cái Muốn đó, nếu không được đánh đổi bằng cái Công Sức tương đương của chính người đó, thì nó sẽ thôi thúc để hiện thực hóa cái Muốn bằng những hành động trái đạo.
Một đồ vật của Người khiến cho mình cứ mãi trầm trồ, mơ tưởng và ao ước, đến một lúc nào đó, cái Muốn đã thực sự dâng cao và khó kềm lòng thì việc Gian Dối hay Lường Gạt, thậm chí Cướp Giựt để có thể sở hữu được đồ vật đó sẽ được thực hiện một cách không đắn đo.
Người ta có tài sản mà mình thì trắng tay, Tâm đã mống lên sự chiếm đoạt, Ý tức khắc lóe lên những toan tính để thảo kế hoạch hành động nhằm chiếm hữu tài sản mà mình mong muốn.
Những hành động gian manh, xảo trá, lọc lừa, dối gian, thậm chí hại chết mạng người để giành giựt người đàn ông hay người đàn bà mà mình mong muốn được sống chung, cũng là một cách triển khai cái Muốn của một người trước Hạnh Phúc của kẻ khác.
Trên con đường tiến đến mức Vinh Quang của Công Danh Sự Nghiệp, Người Đời đã không ngại Chơi Xấu nhau, Chèn Ép nhau, Lọc Lừa nhau, Vu Khống cho nhau, Hãm Hại nhau, tất cả cũng chỉ là đạt cho được cái Địa Vị mà mình mong Muốn.
Tham Ăn, ăn nhiều quá hoặc là ăn những thứ độc hại, sẽ đưa đến Bệnh Hoạn, đôi khi còn bị thiệt thân.
Tham Uống, uống nhiều Rượu quá sẽ say sưa làm mất đi tư cách con người. Rượu vào thì lời ra, khiến cho có gây gổ, chưởi mắng nhau, đập lộn nhau, đôi khi đưa đến chuyện đáng tiếc, gây nên thương tích hay làm thiệt mạng người. Người say sưa không làm chủ được giác quan của mình, đánh mất sự thăng bằng của Trí Tuệ cho nên không điều khiển được mọi hành động của mình, rất dễ dàng gây ra tai nạn chết người nếu lái xe trong lúc quá say sưa. Rượu còn làm cho con người đánh mất Lương Tri, sẵn sàng làm bất cứ điều gì để thỏa mãn cái Muốn của mình trong cơn say sưa, đến khi tỉnh rượu thì sự thể đã muộn màng rồi.
Người Tham Tiền thì không từ nan để làm bất cứ điều gì miễn là tạo ra Tiền, có được Tiền. Do đó họ rất dễ dàng bán đứng kẻ khác, luôn cả việc bán Quốc Gia, Dân Tộc, Xứ Sở của mình, họ cũng chẳng khước từ.
2. Tánh Sân:
Tự Ái của một người chính là đầu mối của Lòng Sân Hận. Tự Ái càng lên cao, Tâm sẽ càng vọng động, Ý xấu sẽ khởi sinh, Tánh Xấu sẽ được dịp bùng lên, và đương nhiên là Nghiệp Lực được tạo thành.
Ngọn lửa Sân tai hại vô cùng, nó thiêu đốt không biết bao nhiêu Chúng Sanh từ vô thỉ kiếp, cứ mãi trôi lăn trong vòng Sanh Tử, không chấm dứt được.
Biết bao nhiêu chuyện đáng tiếc xảy ra cũng chỉ vì quá Sân Hận; cơn Giận bốc lên, khó lòng kềm chế, rất dễ dàng gây nên thương tích cho kẻ khác hay xúc phạm đến Danh Dự của ai đó. Đương nhiên là tự tay mình đã đóng Vòng Nghiệp Lực, nhưng đối với Công Lý của Người Đời thì mình khó lòng tránh khỏi Hình Phạt.
Giữa mọi người trong Gia Đình, trong Bà Con Thân Tộc, nếu không kiểm soát cái Sân của mình qua cái KHẨU, sẽ không tránh khỏi sự cãi vã, đôi khi đưa đến việc chưởi bới nhau, nhục mạ nhau, gây nên cảnh "Cốt Nhục Tương Tàn".
Ngọn lửa Sân còn tác hại, làm tiêu đi Trật Tự Xã Hội do hành động của những kẻ vì quá Sân cho nên thiếu suy nghĩ, làm chuyện điên rồ, chạm đến sanh mạng hay tài sản của những người cùng sống chung trong cộng đồng.
Nếu ngọn lửa Sân xuất phát từ một kẻ có Uy Quyền, nhiều Tham Vọng và Hiếu Chiến, thì việc tiêu hủy một Quốc Gia hay tàn hại một Chủng Tộc là điều vẫn rất có thể xảy ra.
3. Si:
SI luôn luôn đi kèm với MÊ. Vì Mê cho nên mù quáng, vì Mê cho nên không còn nhìn thấy, không còn phân biệt được Phải Trái, không còn nghe được những gì trung thực, cho nên hoàn toàn mù mịt, tối tăm, để rồi rơi vào hố sâu vực thẳm.
Kẻ Mê Tiền thì sẽ rơi vào hố sâu vực thẳm của Đồng Tiền.
Kẻ Mê Sắc Dục sẽ rơi vào hố sâu vực thẳm của Sắc Dục.
Kẻ Mê Quyền Tước sẽ rơi vào hố sâu vực thẳm của Quyền Tước.
Trên Cõi Đời này, có bao nhiêu cái MÊ là sẽ có bao nhiêu loại SI. Càng Mê nhiều thì càng Si nhiều, càng Đắm nhiều, càng đánh mất Lương Tri, mặc tình cho Nghiệp Lực dấy lên.
Một khi đã Mê rồi thì lửa Sân, lửa Hận tha hồ bốc lên, không còn phân biệt đúng sai, phải trái nữa.
Đã Mê Cờ Bạc rồi thì không còn thấy gì nữa cả ngoài các CON BÀI. Vợ Con cũng không còn, Sản Nghiệp cũng tiêu tan để thỏa niềm Đam Mê của kẻ mê Bài Bạc. Bất cứ lời can ngăn, cản trở nào cũng sẽ khơi dậy lửa Sân Hận trong lòng của kẻ đang Mê, gây nên sự phiền lụy, đớn đau cho người thực tâm khuyên bảo.
Một khi đã Mê cái gì rồi thì bỗng nhiên người đó trở thành Nô Lệ của cái vật mà người đó đang Mê, họ sẽ không thể nào sống được nếu thiếu cái vật đó. Lỡ nghiện Thuốc Phiện rồi thì không có "NÓ", người nghiện sẽ không sống được, và họ sẵn sàng hy sinh tánh mạng để đổi lấy một vài "Ngao" thuốc phiện.
Điều này nói lên rất rõ ràng là, từ cái Mê đã thúc đẩy để phát sinh ra cái SI. Chính cái Mê mới phá nát Tâm Thức của một người, khiến cho Căn Thức không còn hoạt động nữa, vì vậy mà người đắm chìm trong cái Mê sẽ không phân biệt được Chánh, Tà, Phải, Trái, Đúng, Sai, và rất dễ dàng tiến vào Cảnh Giới Súc Sanh sau khi bỏ báu thân.
4. Tánh Hiếu Sát:
Mạng Người rất là quý, phải hội đủ những Nhân Duyên mới sinh ra được Kiếp Người. Con Người có cái vui chơi của cuộc sống Con Người, Sinh Vật vẫn ham muốn một sự Sống và nó cũng có cái vui chơi của cuộc sống Con Vật. Con Người vẫn luôn tìm đủ mọi cách để bảo vệ sanh mạng của mình, loài vật cũng thế, tuy rằng không có Tri Giác, Con Vật vẫn là loài ham sống sợ chết.
Nếu Chúng Sanh xem thường sanh mạng của nhau, Chúng Sanh tức khắc bị chi phối bởi Luật Nhân Quả. Trong mỗi con vật đều dung chứa Thần Thức bị đọa; giết hại một sinh vật tức là tạo Nghiệp Chướng với Thần Thức ở trong sinh vật đó, mà đã là tạo Nghiệp thì phải trả Nghiệp, tức là phải đón nhận Quả Trái của cái Nhân Sát Sanh đã gieo trồng từ trước. Chắc chắn rằng Quả Trái nhận được đó sẽ không ngon, không ngọt, mà đó là Quả đắng, Quả chua, Quả dị dạng.
Càng văn minh tiến bộ, đời sống vật chất càng cao, hưởng thụ càng nhiều, Con Người càng lo sợ cái CHẾT đến với mình, do đó, đua nhau đi tìm Thuốc Trường Sinh. Con Người đã không chùn tay sát hại bất cứ con vật nào nếu được mách bảo rằng, ăn thịt của con vật đó sẽ được Trường Sinh Bất Tử, hay làm gia tăng khả năng Tình Dục, có thể sống lâu hơn.
Kẻ nhúng tay vào việc sát sanh cả Người lẫn Vật sẽ khó tránh khỏi những cảnh huống đau thương đến với mình, mà điển hình nhất chính là những bệnh nan y khó tìm Thầy, tìm Thuốc.
5. Tánh Trộm Cắp:
Trộm cắp là hành vi triển khai cái Tánh Tham Lam của một người. Đối với họ, cái gì họ cũng muốn, cái gì họ cũng thích chiếm đoạt, sở hữu.
Trộm cắp không phải chỉ đồ vật, người ta còn ăn cắp thời giờ lẫn công sức của kẻ khác nữa.
Đến nơi làm việc, thực sự làm chỉ có 3 tiếng đồng hồ mà thôi, nhưng khi ghi thời lượng để nhận tiền thì ghi 5 tiếng; thời gian làm việc nơi sở làm thường là 8 tiếng, nhưng đã có bị đánh cắp một vài tiếng để làm việc riêng của nhân viên.
Một người bỏ nhiều công sức để hoàn tất công việc được giao phó, nhưng đến phút cuối thì bị kẻ khác cướp công.
Một đứa bé được chắt chiu nuôi nấng từ lúc mới chào đời, đến lúc trưởng thành, bỗng nhiên có người tự nhận là Cha hay là Mẹ cướp giựt đứa con mang đi.
Hằng ngày đến nơi làm việc, dù là sở công hay sở tư, mang về nhà, nay thì cây viết, mai thì cọc giấy, hoặc là bất cứ một món đồ nào thuộc quyền sở hữu của nơi mình làm việc, đồ vật tuy nhỏ, giá trị không đáng kể, nhưng hành động vẫn là Ăn Cắp.
Đất đai, rừng núi, sông ngòi, ao rạch thuộc quyền sở hữu của Quốc Gia; nếu xâm chiếm những nơi đó để xây cất dinh thự, nhà cửa, hoặc rào chắn làm của riêng, thì đó là hành động Ăn Cắp của công.
Dùng mọi thủ đoạn để chiếm đoạt Địa Vị hay Quyền Lực của một người, đó cũng là hành vi Ăn Cắp.
Khai gian dối để được nhận sự giúp đỡ, sự trợ cấp của cơ quan Công Quyền, đây cũng là hình thức Ăn Cắp.
Hái trái, bẻ hoa mà không có sự đồng ý của chủ nhân vẫn bị xem là Ăn Cắp.
Nói tóm lại, bất cứ một hành vi nào mang tính cách chiếm đoạt quyền sở hữu của kẻ khác đều được liệt vào hành vi Ăn Cắp.
Người có Tánh Ăn Cắp hành động không cần suy nghĩ, không cần đắn đo, không từ nan bất cứ thủ đoạn nào để cướp giựt, để chiếm đoạt cho được. Nếu cần phải ra tay sát hại "khổ chủ", họ cũng chẳng từ nan. Việc thanh toán đồng bọn để tranh giành món đồ cướp giựt, rất dễ dàng xảy ra. Do đó mà Tánh Sát Sanh và Tánh Trộm Cắp dính chặt vào nhau, cùng tạo nên vô số Nghiệp Chướng.
6. Tánh Nói Dối:
Nói dối là hành động man trá, thiếu chân thật, luôn che đậy và dấu diếm sự thật. Đã mang cái Tánh Sát Sanh, lại thêm cái Tánh Trộm Cắp, do đó bắt buộc phải Dối Trá để qua mặt lẫn nhau, hay qua mặt người chung quanh.
Trong khi Tánh Sát Sanh và Tánh Trộm Cắp có tính cách hiển lộ thì Tánh Nói Dối lại ẩn tàng bên trong. Sự dối trá được sắp xếp có lớp lang, mạch lạc để làm mờ mắt người chung quanh, để gieo vào đầu óc mọi người rằng, mình là người chân thật, ăn ngay nói thẳng khiến cho không có sự đề phòng, giúp cho kẻ dối trá được dễ dàng thao túng và sắp xếp kế hoạch để hại Người, để lừa đảo Người. Tánh Nói Dối rất là tai hại vì kẻ nói dối lợi dụng sự dễ tin của người khác để làm muôn điều sằng bậy, cướp giựt tiền tài, sản nghiệp và luôn cả hạnh phúc, thanh danh của Người đã quá tin tưởng vào miệng lưỡi của Kẻ Nói Dối.
Làm Chủ Tịch nắm quyền hành của một doanh nghiệp mà thiếu sự chân thật, báo cáo tình hình tài chính một cách dối trá, khiến cho các cổ đông tin tưởng vào sự lớn mạnh, vững chắc của công ty, an tâm góp thêm vốn vào để canh tân hóa hay hiện đại hóa doanh nghiệp, đến khi công ty tuyên bố phá sản, lúc đó mới thực sự là một cảnh não lòng với một số đông người vừa chán chường, vừa mất niềm hy vọng vì hoàn toàn trắng tay.
Là một chính trị gia, thay vì dùng khả năng hiểu biết của mình để dẫn dắt người dân làm những điều tốt đẹp, lợi ích cho bản thân, cho đồng loại, thì ngược lại dùng những trò mị dân, ve vuốt dân khiến cho dân tin tưởng mà bỏ phiếu bầu cho mình. Dân đâu biết rằng, người mà mình ủng hộ đã hoàn toàn không làm bất cứ điều gì ích lợi cho dân, chỉ biết lo củng cố uy quyền của mình cho ngày một thêm cao, thêm nhiều hơn mà thôi.
Với cương vị của một Bác Sĩ trước một căn bệnh mà mình không biết cách để khắc phục, thay vì tham khảo ý kiến với đồng nghiệp để tìm một hướng đi đúng cho việc chữa trị, đàng này, vì tự ái, không muốn để lộ sự yếu kém, thiếu khả năng chuyên môn của mình, nên đã chữa trị lòng vòng, không đi đúng vào tâm điểm của căn bệnh, dùng những lời dối trá để trấn an bệnh nhân, cuối cùng thì người chịu thiệt thòi chính là bệnh nhân, vừa mất tiền mà đôi khi cũng mất luôn cả mạng sống nữa.
Những kẻ có chủ tâm lường gạt đều bắt đầu câu chuyện bằng sự dối trá, đặt điều, đánh mạnh vào tình cảm hay sự tham lam của kẻ bị gạt.
Người hay nói dối cộng thêm cái Tánh tham Tiền, tham Quyền, không sớm thì muộn cũng bán đứng gia đình dòng họ, hay một người có Thế Lực nào đó để mình dựa lưng vào, và cũng có thể bán luôn cả Quốc Gia Dân Tộc của mình cho ngoại bang mà không một chút gì thương tiếc.
7. Tánh Uống Rượu:
Đây là một hình thái của cái Tánh Tham, Tham Uống!
Vong Linh cũng đã hiểu rằng, khi đã say sưa rồi thì không còn điều khiển được Tâm Trí của mình nữa, không kiểm soát được lời nói cũng như hành động của mình, vì vậy mà thả lỏng những Thói Tật Xấu Xa của mình. Rượu vào thì khiến người ta dễ dàng đánh mất Lương Tri, triệt hạ tư cách của mình, khó lòng kềm hãm, đắn đo trong cử chỉ, trong hành động và tỏ lộ sự sỗ sàng trong lời nói.
Rượu là chất xúc tác giúp cho Thế Hệ Già lẫn Trẻ có thể lăn xả vào cuộc chơi thâu đêm suốt sáng mà không hề biết mệt mỏi, để rồi….. Ta say Trời Đất cũng say, Hồn Ta bay bổng lên cao, khi nhìn xuống đất thì Thân Ta đầm đìa máu me! Một ngày qua là có biết bao nhiêu tai nạn xe cộ chết người chỉ vì tài xế say sưa trong lúc lái xe.
Rồi say sưa đến quên cả đường về nhà, đến té ngã giữa đường, phải nhờ người qua đường gọi xe cấp cứu.
Say sưa đến nội tạng muốn rơi rớt ra từng mảnh mà cũng chẳng quan tâm.
Hình ảnh người Phụ Nữ say sưa, đi đứng xiêu vẹo trông thật là khó coi và khó chấp nhận.
Người say sưa rất dễ dàng làm lỗi; thử hỏi, có cái gì mà người ta không dám làm khi "hơi men" đã bốc lên rồi? Do đó, có biết bao nhiêu chuyện sai trái kể cả việc Sát Sanh, hại Người, hại Vật đã xảy ra trong cơn say sưa của một người.
8. Tánh Tà Dâm:
Tà Dâm là một Tánh Xấu bắt nguồn từ Tánh Tham và từ ở sự Si Mê của một người. Tà Dâm dính chặt với việc uống rượu. Rượu vào sẽ khích động cái tính chất "thật" của bản năng của một người. Khi đó, tất cả những gì Không Tốt Đẹp của Bản Năng sẽ được phơi bày.
Mang cái Tánh Tà Dâm trong người, đầu óc lúc nào cũng đầy hình ảnh gợi lên sự Dâm Dục. Nói về phương diện Thể Xác, chắc chắn rằng cái Thân Thể đó không cường tráng nổi vì sớm muộn gì cũng sẽ mang nhiều chứng bệnh do ở sự Dâm Dục đưa đến.
Tinh Thần thì đương nhiên bại hoại vì Tâm và Ý lúc nào cũng vọng động vì những hình ảnh của sự Dâm Dục. Chính sự Dâm Dục mới là đầu mối gây tạo nên vô số là tội ác.
Đã có Dâm Tánh lại cộng thêm cái Tánh Bất Lương, sẽ tạo nên cái thế vẫy vùng thuận lợi cho cả phái Nữ lẫn phái Nam trong việc Lường Gạt, Lừa Đảo Tình lẫn Tiền.
Có thể nói, tội ác nặng nề nhất do dâm dục gây ra chính là Ấu Dâm!
Những xâm phạm về Tình Dục đã khiến cho những trẻ thơ phải gánh chịu sự thương tổn nặng nề từ Thể Xác cho đến Tinh Thần. Đôi khi sự thương tổn đó lên cao tột khiến cho đứa bé trở thành ngớ ngẩn, mãi mãi không còn tìm lại được cuộc sống bình thường với những cảm xúc của một con Người đúng nghĩa.
Tệ nạn buôn người cũng vô cùng là kinh khủng.
Hằng ngày có biết bao nhiêu phụ nữ ở các Quốc Gia nghèo đói trên Thế Giới rơi vào tay của bọn buôn người, với mục đích làm thỏa mãn tình dục cho những kẻ có đầu óc bệnh hoạn, những kẻ bạo dâm, và cho những con người thực sự gần như không còn Nhân tính nữa.
Người mang cái tánh Tà Dâm khó điều khiển dục vọng của mình, dễ động lòng Dục và sẵn sàng ra tay cưỡng hiếp bất cứ ai khi lòng Dục nổi lên. Họ có thể dùng sức mạnh thể lực hay vũ khí để trấn áp và tấn công nạn nhân, đôi khi gặp sức kháng cự mãnh liệt thì việc sát hại nạn nhân cũng sẽ dễ dàng xảy ra.
Cũng có khi cái tánh Tà Dâm biến thành căn bệnh, khiến cho người này cứ phải luôn luôn đi tìm người để thỏa mãn Dục Tình, đưa đến việc cưỡng hiếp phụ nữ hằng loạt, tạo nên một sự rối loạn trật tự xã hội.
Những cái Muốn phát sinh từ Dâm Tánh đã gây tạo biết bao nhiêu tội ác khiến cho vô số Nghiệp Lực được tạo thành.
9. Tánh Thị Phi:
Người có Tánh thích Thị Phi lúc nào cũng hăm hở muốn biết chuyện nhà Người, càng nhiều càng tốt; thích bàn luận bất kỳ chuyện gì có liên quan đến người khác; thích phê phán, vạch vòi để mọi người cùng rõ, cùng thấy những cái Xấu, cái Dở, cái Sai, cái không Hay của kẻ khác; thích dẫn dắt câu chuyện tiến lần đến việc Khen Chê, Gièm Siểm vô căn cứ về việc làm hay hành động, lời nói, luôn cả tư cách, đời sống riêng tư của người bị phẩm bình.
Người có Tánh thích Thị Phi, trong lời nói, luôn luôn hàm chứa một Thâm Ý là cố tình hạ nhục kẻ mà mình nói đến.
Trong đời sống hằng ngày, khi giao tế, Tánh Thị Phi làm cản trở rất nhiều việc gìn giữ lâu dài mối Giao Hảo, hay một Thân Tình Bằng Hữu với người chung quanh.
Tánh Thị Phi là một Tánh Xấu vô cùng cực, có thể mang đến một kết quả rất là tai hại do ở việc nghe đầu này nói lại đầu kia nhưng không Trung Thực, nhiều Thêm Thắt, khiến cho có sự hiểu lầm đưa đến cãi vã, xô xát nhau, đôi khi gây nên thương tích trầm trọng.
Tánh Thị Phi chẳng những gây tạo nhiều Nghiệp Chướng mà còn làm tăng thêm Phiền Não, đánh mất Tình Thân Ái và rước Họa vào thân.
10. Tánh Ganh Tị:
Đây là một Tánh Xấu có liên quan rất nhiều đến Tự Ái. Vì sự thua kém kẻ khác về phương diện: sắc đẹp, tài năng, gia cảnh, tiền tài, danh vọng, quyền thế, sự nghiệp, công danh, địa vị, học vấn, hạnh phúc...mà đâm ra tức tối, giận dữ, nảy sinh ghen ghét, hiềm khích. Từ Ganh Tị đưa đến việc đặt điều nói xấu, vu oan, giá họa, hãm hại, thanh toán đối phương, tất cả diễn biến rất nhanh.
Tánh Ganh Tị hiển lộ rất rõ ràng trên Chính Trường, giữa các Chính Trị Gia, giữa các phe phái với nhau. Những người này không ngừng vạch lá tìm sâu của nhau, tìm những sơ hở, những khuyết điểm, những lỗi lầm để bêu rếu nhau, nói xấu lẫn nhau để kéo cử tri về phía mình, bầu bán cho mình. Họ không từ nan bất cứ thủ đoạn nào, miễn là chiếm cho được cái địa vị mà mình mong muốn.
Đôi khi chỉ vì cái tánh Ganh Tị, muốn cho được việc mà các phe phái đã xách động dân chúng biểu tình làm loạn, khiến cho Xã Hội mất đi trật tự, gây những sự rối loạn, bất an trong đời sống bình thường của dân chúng.
Khi cái tánh Ganh Tị lên quá cao, sẽ chẳng lấy làm lạ khi thấy bóng dáng ẩn hiện của ngoại bang, rõ ràng là "cõng rắn cắn gà nhà", mượn tay ngoại bang để tranh giành quyền lực thì một ngày nào đó, đất nước của mình cũng sẽ thuộc về tay kẻ khác, mình cũng sẽ không còn chỗ để dung thân.
Vì có liên quan đến Tự Ái, cho nên người có Tánh Ganh Tị dễ bị du vào sự Sân Hận và đôi khi "vung tay" quá mạnh khiến cho gây tạo nên Nghiệp Lực rất nặng nề.
11. Tánh Ích Kỷ, Hẹp Hòi:
Người Ích Kỷ chỉ biết lo cho bản thân mình, còn người khác như thế nào thì mặc kệ. Phương châm hành động ở Đời của họ là: "Sống Chết Mặc Ai". Họ không tha thiết đến Tình Tương Trợ và rất hững hờ với 2 chữ Từ Bi. Rất khó mà kêu gọi họ "Góp Một Bàn Tay".
Người Ích Kỷ, Hẹp Hòi sẽ không thể nào có được một Nhân Sinh Quan cởi mở, một tầm nhìn sâu rộng về tương lai, họ sống thiếu sự cảm thông, họ có lối suy nghĩ rất là hạn hẹp, do đó khó lòng tìm được sự Hòa Hợp với người chung quanh.
12. Tánh Thích Chưởi Bới:
Người Thích Chưởi Bới không kiểm soát được cái Tâm, cái Ý của mình, do đó mà những vọng động trong Tâm Ý thoát ra ngoài từ cái MIỆNG. Những vọng động đó bao gồm cái gì? Chính là những điều nghĩ quấy về người khác, những tư tưởng không tốt đẹp gán ghép cho ai đó, những toan tính áp đặt trên một người nào đó.
Có người xem việc chưởi bới như là một cách giải tỏa sự bực tức của mình khi Tự Ái bị va chạm, hoặc khi Quyền Lợi bị xâm phạm.
Có người thích chưởi bới vì không có ai làm họ vừa lòng cả.
Có người mang sẵn Tập Khí hung hăng, chuyện gì họ cũng có thể chưởi được, không nhất thiết phải có liên quan đến họ.
Có người ghiền chưởi bới, một ngày mà không có chưởi ai, họ sẽ cảm thấy xốn xang, khó chịu.
Vong Linh nên nhớ rằng, đã gọi là Chưởi, tức là để thoát ra khỏi miệng mình những lời xấu xa, đôi khi rất tục tằn, dơ bẩn, rất khó nghe; kẻ nói qua, người nói lại, ai cũng muốn giành lấy phần thắng về mình, do đó đặt điều, thêm thắt, dối trá, và cái kết cuộc là một sự xô xát lẫn nhau đưa đến điều đáng tiếc.
Khẩu Nghiệp được tạo ra là việc đương nhiên, Sân Hận dẫn đến Nghiệp Sát đó mới là điều đáng nói.
13. Tánh Phung Phí:
Người có Tánh Phung Phí khác với người có Tánh Rộng Rãi. Người có Tánh Rộng Rãi lúc nào cũng sẵn sàng mở rộng tấm lòng vì người khác, không quá hẹp hòi khi "cho ra" và đãi ngộ tương xứng với công sức của kẻ khác làm cho mình. Người có Tánh Rộng rãi vẫn cân nhắc những việc mình làm, vẫn thẩm định đúng hay sai, nên hay không nên trên từng sự giúp đỡ của mình, họ không hay "kì kèo" thêm bớt, nhưng hiểu rất rõ mục đích của từng việc mua sắm, của từng chi tiêu của mình.
Người có tánh Phung Phí, trong bất cứ một công việc gì, cũng đều chứng tỏ sự hoang phí, họ không biết thế nào là tiết kiệm, họ làm theo Bản Năng nhiều hơn là Tri Thức. Cứ thích là làm, cứ muốn là mua, cứ vui là nhập cuộc, không cần biết kết quả ra sao. Họ chi xài không đắn đo và tiêu pha nhiều trong những việc vô ích. Họ có thể mua rất nhiều thứ do sở thích, nhưng sử dụng không bao nhiêu hoặc có khi chẳng bao giờ "đụng" tới.
Người có Tánh Phung Phí sống với cái Tự Ái của mình nhiều hơn. Một lời nói khích, một hành động "chơi trội" của kẻ khác, với sự cao ngạo sẵn có, người có Tánh Phung Phí sẵn sàng triển khai cái Tánh Xấu của mình.
Do ở việc không biết tiết kiệm, hành động theo Thị Hiếu, thiếu sự cân nhắc, đắn đo, lợi hại, thiếu sự để Tâm, người có Tánh Phung Phí khó lòng gìn giữ Sản Nghiệp của Cha Ông, và việc trở thành kẻ trắng tay là một điều tất yếu, không ngạc nhiên.
Một người Chồng hay người Cha, hoặc một người Mẹ hay người Vợ có Tánh Phung Phí thì gia đình khó lòng đứng vững, không sớm thì muộn cũng lâm vào cảnh túng cùng, thiếu hụt, khiến cho tương lai của con cái đâm ra mờ mịt, hạnh phúc gia đình bị lung lay.
Trong một Quốc Gia, nếu người cầm quyền không hoạch định kế sách một cách tỉ mỉ, chu đáo, không biết thẩm định một cách rõ ràng và hợp lý việc sử dụng tiền THUẾ của dân trong tất cả những chi tiêu, không sớm thì muộn, Chính Quyền cũng sẽ phải rơi vào tình trạng "PHÁ SẢN" do ở sự phung phí của các cơ quan công quyền.
14. Tánh Lười Biếng, Ù Lì:
Người Lười Biếng rất sợ công việc làm, họ tìm đủ mọi cách để thối thác công việc, để chối từ những lời đề nghị khiến cho họ phải nhọc sức, tốn công. Việc chẳng đặng đừng vì vấn đề mưu sinh nuôi sống bản thân hay gia đình của họ, họ đành phải ngày ngày đi tới sở làm, nhưng sau công việc ở sở rồi thì khó lòng để họ cất nhắc làm thêm bất cứ việc gì nữa.
Trong Gia Đình, người Chồng, người Cha mang Tánh Lười Biếng, từ việc nhỏ đến việc lớn, từ việc nhẹ đến việc nặng đều "đùng" cho Vợ Con; nếu con còn thơ dại, đương nhiên là người Vợ sẽ phải lãnh hết công việc trong nhà, chắc chắn rằng Hạnh Phúc Gia Đình khó lòng vững chãi.
Một kẻ chỉ thích lánh nặng tìm nhẹ, dù sống chung với bất cứ ai cũng đều mang đến sự bực mình cho người sống cùng mái nhà. Lâu ngày Sân Hận dâng cao, "Chiến Tranh" bùng nổ, phá tan Hòa Khí trong nhà. Dù quyền lợi còn hay mất, Tình Thân Ái cũng vẫn bị sứt mẻ rất nhiều.
Tánh Lười Biếng cũng đem đến hậu quả khó lường khi gặp phải trường hợp cứu Người, nếu người cứu không nhanh nhẹn, chậm chạp, ứng phó thiếu kịp thời thì tánh mạng của người gặp nạn sẽ trở nên nguy kịch.
Người Ù Lì hành xử như một người trơ trơ, bất động, không kể gì đến mọi vật chung quanh mình, họ hành động theo kiểu "Há Miệng Chờ Sung", ai cho thì nhận, ai đưa thì lấy, không có ý kiến, cũng chẳng có sự nghĩ suy. Đây thuộc hoàn toàn về Tánh Tình của họ chớ không phải thuộc một căn bệnh nào khác.
Người Ù Lì vẫn nhận ra rằng mình có Tánh Ù Lì, nhưng họ không quan tâm, vì dù sao đi nữa cái Tánh Chất Lười Biếng vẫn có trong người của họ.
15. Tánh Thiếu Thận Trọng và Tắc Trách:
Phàm làm việc gì cũng đòi hỏi sự Thận Trọng dù việc lớn hay việc nhỏ. Công việc càng tỉ mỉ chừng nào càng đòi hỏi sự Thận Trọng nhiều chừng nấy. Thận Trọng và Tắc Trách là 2 cái Tánh đối nghịch nhau.
Người làm việc Tắc Trách không để sự cẩn thận vào trong công việc của mình làm, chỉ cốt làm cho lấy có, lấy lệ, làm cho mau xong công việc rồi thôi. Người Đời thường hay có câu: "Chấm công ăn tiền" để chỉ những kẻ làm việc Tắc Trách.
Người thiếu Thận Trọng không để hết tâm tư của mình vào công việc, họ vẫn hoàn tất công việc, nhưng không để ý đến những chi tiết nhỏ nhặt có thể dẫn đến sự thất bại, họ thiếu sự chú ý, thiếu sự sắp xếp để cho công việc tiến hành trôi chảy và tốt đẹp.
Người làm việc vừa thiếu Thận Trọng lại vừa Tắc Trách, bảo sao kết quả không được Như ý? Thử lấy thí dụ:
-
Người học trò làm bài luận ra trường, trong đó ý tứ thiếu trước hụt sau, Nội Dung không phong phú, Hình Thức thì đầy lỗi Chánh tả, Văn Phạm, Cú Pháp không chuẩn, kết quả là Người học trò đó không đủ tiêu chuẩn để tốt nghiệp.
-
Vị Bác Sĩ đang giải phẫu cho Bệnh Nhân. Từng mũi dao rạch trên da thịt của bệnh nhân, chỉ cần một chút lơ là, thiếu Thận Trọng, mũi dao sẽ lệch đi nơi khác, có thể xâm phạm đến nội tạng kế bên, khiến cho cuộc giải phẫu càng thêm rắc rối.
-
Một người Mẹ chăm sóc cho đứa con vừa mới chào đời, vừa cho con bú (bằng bình sữa), vừa dán mắt vào màn ảnh truyền hình; khi chợt nhìn xuống thì sữa đã đổ đầy trên mặt đứa bé. Đây là một hành động vừa thiếu Thận Trọng, vừa vô cùng Tắc Trách. May mắn thay là chưa có việc đáng tiếc xảy ra cho đứa bé, nếu không thì người Mẹ sẽ khóc hận suốt cả đời vì việc làm thiếu Thận Trọng và Tắc Trách của mình.
-
Một người tài xế lái chiếc xe chở hành khách, nếu người đó không đặt hết tâm trí của mình vào việc lái xe, không nhìn trước, ngó sau, không để ý những xe chạy gần mình, vừa lái xe vừa nói chuyện điện thoại khiến đầu óc bị phân tâm, người tài xế đó sẽ khó lòng phản ứng kịp thời và nhanh nhẹn khi chiếc xe chạy phía trước thắng gấp, chắc chắn tai nạn sẽ xảy ra và gây nên thương tích cho những hành khách trên xe.
-
Thiếu Thận Trọng, không kiểm soát lửa củi trước khi rời nhà Bếp, cho nên hỏa hoạn xảy ra trong lúc cả nhà chìm sâu trong giấc ngủ, bao nhiêu mạng người bị thiêu sống trong căn nhà cháy rụi.
Trong những công trình nghiên cứu, yếu tố Thiếu Thận Trọng luôn luôn bị loại trừ vì chắc chắn sẽ làm cho việc nghiên cứu khó thành công.
Trong cuộc sống hằng ngày, Thiếu Thận Trọng trong cách hành xử sẽ đem đến sự bực dọc, khó chịu cho người mình giao tiếp.
Thiếu Thận Trọng trong lời nói sẽ dễ gây sự hiểu lầm, đưa đến sự cãi vã, mất đi hòa khí với mọi người.
Muốn thành công trên đường Đời, phải loại bỏ cái tánh Thiếu Thận Trọng để chứng tỏ mình là người luôn quan tâm đến mọi người, mọi sự vật, mọi sự kiện.
16. Tánh Tự Cao Tự Đại:
Đây là một Tánh Xấu thường thấy ở những người Cao Sang Quyền Quý, những người có Học Vị cao, những người có Chức Tước Địa Vị.
Cái Tánh Xấu này khởi từ ở Tự Ái mà ra. Tự Ái càng cao, càng thấy chung quanh mình không có ai xứng đáng để so sánh với mình. Tánh Xấu này có khi phát lộ ra ngoài khiến cho ai nhìn vào cũng đều thấy cả. Đôi khi ẩn tàng bên trong, phải gần gũi, giao tế mới phát hiện được.
Nói chung, người mang Tánh Xấu này không gây được cảm tình của những người chung quanh. Họ chỉ có thể giao thiệp với những người "đồng hạng" với họ mà thôi, vì người tự cao thì ít khi làm bạn với kẻ KÉM hơn mình.
Do cái Tánh Tự Cao Tự Đại này mà đôi lúc người mang Tánh Xấu đó lại trở thành mục tiêu cho nhiều người đàm tiếu, chê bai qua những hành động có tính cách tự cao tự đại của người này.
Trong gia đình, cha mẹ có tánh Tự Cao Tự Đại sẽ làm gương xấu cho con cái. Những người còn trẻ mà tánh tình thiếu nhũn nhặn, luôn xem mình ở trên cao, khinh thị người yếu kém, nghèo khó, thiếu phương tiện học hỏi, không bằng mình, những người Trẻ này khi bước chân vào Đời, va chạm với thực tế, gặp gỡ người tài giỏi hơn mình, khi đó mới cảm thấy hổ thẹn và thấm thía câu, "Mình giỏi có người giỏi hơn, mình giàu có người giàu hơn".
Sự Tự Cao Tự Đại chỉ đưa đến ác cảm, đưa đến sự đối xử thiếu nhã nhặn, cũng như dẫn đến những lời lẽ thiếu ôn hòa của mọi người trong xã hội đối với chính cá nhân mình mà thôi.
Cõi Ta Bà được mệnh danh là một Hành Tinh XANH với biết bao nhiêu là Vô Tình Chúng Sanh, cây rừng, hoa lá, cỏ cây xanh rì, lại thêm sông ngòi ao rạch, khe lạch suối nước, thác đổ, biển cả mênh mông, tất cả đã góp phần tô điểm cho vẻ đẹp của cõi Ta Bà, cũng như tạo thành một máy lọc thiên nhiên khổng lồ cho Chúng Sanh của cõi Ta Bà.
Vậy mà có những kẻ Tự Cao Tự Đại, hăm hở với những phát minh, sáng kiến của mình, phá hủy những công trình bảo vệ môi sinh, chặt cây, phá rừng, san bằng núi non, ngăn chận sông ngòi, lấp bằng khe suối, khiến cho Hành Tinh Xanh dần dần trở nên héo úa, loang lổ, bào mòn vì không còn đủ cây rừng để ngăn cản những biến động địa lý.
Bão tuyết, lũ lụt, mưa đá, cuồng phong, cứ ồ ạt tiến đến như thác lũ, càng ngày càng soi mòn, gặm nhấm lớp phù sa màu mỡ khiến cho các Vô Tình Chúng Sanh biến mất dần đi.
Rồi một ngày nào đó, Hành Tinh Xanh héo úa hoàn toàn, sự sống của các Vô Tình Chúng Sanh không còn nữa, các Hữu Tình Chúng Sanh trên Hành Tinh đó sẽ ra sao? Sẽ sống như thế nào? Vong Linh phải hiểu rằng, có một sợi dây vô hình rất là chặt chẽ, buộc ràng Hữu Tình và Vô Tình Chúng Sanh vào nhau, cả 2 phía đồng trợ lực cho nhau.
Từ nguyên thủy cho đến tận hôm nay, cỏ cây, hoa lá, rau củ quả vẫn là thức ăn nuôi sống Chúng Sanh của cõi Ta Bà. Giúp cho con Người qua được những cơn bạo bệnh cũng là sự đóng góp của Loài Vô Tình. Dù rằng ngày nay, những công ty dược phẩm sáng chế nhiều loại thuốc trị bệnh rất hay, nhưng, họ vẫn là rút ra từ dược tính của các Loài Vô Tình.
Không còn Vô Tình Chúng Sanh, Hữu Tình Chúng Sanh cũng khó mà tồn tại được.
Do đó, phải chung tay góp sức mà bảo vệ Môi Trường, phải luôn luôn giữ gìn sự hiện hữu của các loài cỏ cây, hoa lá, rừng rậm, núi non, sông ngòi, biển cả, đừng vì quá Tham Lam, quá Tự Cao Tự Đại mà phá hủy cái nơi dung chứa mình, giúp cho mình trải qua biết bao nhiêu kiếp Người.
Vong Linh cũng đã biết qua ở bài Pháp trước, cõi Ta Bà là nơi mà Vong Linh, từng kiếp, từng kiếp Người, đến để học tranh đấu, để mong chỉnh sửa lại cái Thần Thức của Thân Xác của Vong Linh. Ngày nào mà Tâm - Ý - Tánh của Thân Xác của Vong Linh đồng rực sáng, khi đó Thần Thức của Thân Xác của Vong Linh mới thực sự Thăng Hoa.
17. Tánh Hách Dịch:
Đây cũng là một Tánh Xấu thường thấy ở những người Cao Sang, Quyền Quý, Giàu Tiền Lắm Bạc, Chức Trọng Quyền Cao. Sự Hách Dịch thường biểu lộ qua lời nói, qua hành động, qua cử chỉ. Tánh Xấu này thường đi đôi với Tánh Tự Cao Tự Đại kèm với cái Tự Ái cao vòi vọi, cho nên thường khó gây thiện cảm với kẻ khác.
Người ta đến với người Hách Dịch là để nhờ vả nhiều hơn là để thân thiện. Tùy vào cường độ Hách Dịch cao hay thấp, ra Oai nhiều hay ít mà số người "ghét" sẽ lên cao hay xuống thấp. Khi số người không có thiện cảm với mình càng nhiều thì Nghiệp Chướng càng dễ phát sinh.
18. Tánh Thiếu Thành Thật:
Trong phép giao tế, Người Thiếu Thành Thật đối xử với người chung quanh bằng Sự Dối Trá. Điều này sẽ khiến cho mọi người mất niềm tin vào người đó và tìm cách tránh xa.
Từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội, tiếng nói của người Thiếu Thành Thật ít được ai lắng nghe, và việc làm của họ luôn luôn đem lại một sự nghi ngờ về thành quả. Do ở sự Thiếu Thành Thật mà họ dễ dàng tạo Nghiệp Chướng qua sự Dối Trá.
Trên thương trường, Tánh Thiếu Thành Thật không thể nào làm căn bản vững chắc cho sự trao đổi làm ăn mua bán, một khi đã Thiếu Thành Thật thì việc Lường Gạt cũng sẽ rất dễ xảy ra.
19. Tánh Thủ Đoạn:
Người có Tánh Thủ Đoạn khi giao thiệp với mọi người thường hay sử dụng những Mánh Khóe, những Ngón Nghề đặc biệt của mình. Họ tính toán rất kỹ những "Chiêu Thức" tiến, thoái, quyết đem về Thắng Lợi chớ không phải Thất Bại, do đó họ không ngần ngại khi phải Gian Dối hay thậm chí dùng đến Mưu Mô.
Thủ Đoạn luôn đi kèm với Xảo Quyệt, đó là một cặp đôi rất tương xứng. Đã có Mánh Khóe thì phải biết Gian Ngoan, tức là biết Gian Dối, biết Khôn Ngoan để luồn lách, để che đậy, để qua mặt.
Thủ Đoạn và Xảo Quyệt là 2 Tánh Xấu đáng sợ trong bất kỳ trường hợp nào dù Tốt hay Xấu. Trong giao tế hằng ngày, việc dùng Thủ Đoạn hay những trò Xảo Quyệt để đối xử với nhau đều không mang đến kết quả tốt đẹp vì nó không phù hợp với yếu tố Nhân Bản, theo đó thì tất cả mối tương quan giữa Người và Người phải đặt trên nền tảng căn bản là Sự Chân Thật.
20. Tánh Ác Độc:
Ác Độc trái nghĩa với Hiền Hậu. Người Hiền Hậu, từ sự nghĩ suy đến lời thốt ra, đến cử chỉ, đến hành động, thậm chí đến cái nhìn, nhất nhất đều toát ra một sự nhẹ nhàng, khoan dung và vị tha. Những gì họ làm đều có dính líu ít nhiều đến lợi lạc của kẻ khác, ngay cả những việc thuộc về riêng tư của họ, nếu việc họ làm, thật sự khiến cho một ai đó không được hài lòng, họ vẫn không đắn đo khi phải chấm dứt công việc.
Người Ác Độc thì hoàn toàn ngược lại. Với cái tánh ích kỷ hẹp hòi sẵn có, họ nghĩ về Mình nhiều hơn về Người, họ làm cho Mình chớ không làm cho Người, họ chỉ đem lại niềm vui cho riêng họ, như vậy là quá đủ!
Có thể nói Tánh Ác Độc là một sự pha trộn của nhiều tánh xấu: Tham Lam cũng có, Sân Hận cũng không thiếu, thêm gian dối, lọc lừa, thích nghĩ quấy cho người, bất cần lắng nghe lời giải thích của kẻ khác và không chùn tay khi làm đau kẻ khác dưới bất cứ hình thức nào. Người có tánh Ác Độc gần như "vô cảm", thiếu sự cảm xúc trước nỗi đau của kẻ khác.
Người ta Ác Độc chẳng những đối với Đồng Loại của mình, người ta còn biểu lộ sự Ác Độc trên các Loài Vật nữa. Những cơn thịnh nộ, những điều bực tức cứ tha hồ trút trên thân xác của các con vật nuôi trong nhà qua những trận đòn chí tử vô căn cứ.
Người Ác Độc khi đã quyết chí trả thù thì rất khó nương tay; mưu kế, thủ đoạn được dàn dựng tỉ mỉ để đối phương một khi đã lọt bẫy rập rồi thì sẽ vô phương chạy thoát.
Tánh Ác Độc đương nhiên gây tạo nhiều Oan Trái vì Thù nhiều hơn Bạn.
Nếu không được tích cực triệt tiêu, tánh Ác Độc sẽ trở thành Tập Khí, dính chặt vào Thần Thức của Vong Linh, khiến cho Thân Xác của Vong Linh, qua nhiều đời nhiều kiếp, sẽ khó tìm được một sự nhẹ nhàng, thoải mái vì phải luôn đối đầu với quá nhiều Nghiệp Chướng gây tạo nên bởi cái Tánh Ác Độc.
21. Tự Ái:
Tự Ái, thật sự ra không phải là một cái Tánh, nhưng, nó còn nặng nề và đáng lo ngại hơn cả cái Tánh nữa. Vong Linh đã hiểu qua thực chất của Tự Ái rồi, nó chính là Nghiệp Chướng Nền Tảng, là ngòi lửa làm bùng dậy ngọn lửa SÂN, thiêu tàn rụi bao nhiêu Công Đức, bao nhiêu Phước Đức, xóa tan Tình Thâm, Tình Thân, và Tình Thương.
Khi Tự Ái nổi lên thì bao nhiêu Tánh Xấu có liên quan đến cái Tự Ái đó sẽ ùn ùn kéo tới và cổ võ cho Tự Ái, để rồi ngọn lửa Sân bùng cháy và Vòng Nghiệp Lực đóng lại để tạo Oan Khiên.
Vong Linh hãy ghi nhớ một điều: Thân Xác của Vong Linh có quyền thốt ra lời để diễn tả ý của mình, nhưng, không có quyền bắt buộc người khác phải nghe theo và làm theo ý của mình. Không nên hành xử bất kỳ điều gì có tính cách va chạm vào Tự Ái của kẻ khác, nếu muốn tránh việc gây tạo Nghiệp Lực.
Vong Linh hãy lợi dụng thời gian Đặc Ân này để hằng ngày tâm niệm tiêu trừ cái Tự Ái. Khi trở lại kiếp Người, Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ không còn bị lôi kéo vào cái tầm ảnh hưởng của Tự Ái, do đó sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn, và điều quan trọng là bớt tạo Nghiệp Chướng từ cái Tự Ái của mình.
Hỡi Vong Linh (Tên Họ...Pháp Danh…), đây là những Tánh Xấu mà Chúng Sanh thường hay mắc phải dù là thuộc Chủng Tộc nào. Những Tánh này chưa phải là những Tánh cực kỳ Xấu, nhưng vẫn đủ sức khiến cho mình tạo Nghiệp dễ dàng vì nó có dính líu đến Tham- Sân- Si, dễ khiến cho Tâm - Ý mình đổi thay, vọng động, do đó mà Nghiệp Chướng phát sinh. Tránh được bao nhiêu Tánh Xấu này cũng đủ giúp cho Tâm mình An Bình, cuộc sống mình thư thả, ít lụy phiền, tạo được Hòa Khí với người chung quanh, ở kiếp Vị Lai.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt, Vong Linh hãy ráng tư duy từng tánh xấu một và hãy quyết tâm từ bỏ. Cứ một tánh xấu được triệt tiêu thì cơ hội tạo nên Nghiệp chướng được giảm đi. Càng triệt tiêu được nhiều tánh xấu, Thân Xác Mới càng được nhẹ nhàng, cuộc đời sẽ bớt chông gai, phiền muộn, đời sống Tâm Linh được cải thiện nhờ vào Thiện Duyên gặp được Thiện Tri Thức hướng dẫn để chỉnh sửa Tâm - Ý - Tánh của mình. Cánh cửa của sự Thăng Hoa đã hé mở, chỉ cần một sự quyết tâm và can đảm diệt trừ tất cả những Thói Hư Tật Xấu, cánh cửa đó sẽ rộng mở để hân hoan tiếp đón một Thần Thức thăng hoa vừa rời bỏ báu thân.
TUẦN THẤT THỨ TƯ:
Ngày thứ 22:
Hỡi Vong Linh ( Tên Họ... Pháp Danh...),
Ngày mà Vong Linh còn sự sống trên Dương Thế, mỗi lần Thân Xác của Vong Linh làm một điều gì đem lại lợi lạc cho ai đó, Thân Xác có cảm giác như thế nào?
Đơn cử một vài thí dụ sau đây:
Giúp đỡ cho một cụ già run rẩy băng qua đường - Chỉ dạy cho một cậu nhỏ giải bài toán khó - Lắng nghe lời tâm sự về một hoàn cảnh thương tâm và tận tình giúp đỡ - Cứu một chú chim non rơi vào bụi cây - Tôn kính và hiếu thảo với Ông Bà, Cha Mẹ - Thương yêu và đùm bọc Anh Chị Em - Đối xử tốt với Bà Con Dòng Họ - Không bạc đãi thú vật nuôi trong nhà - Khuyên lơn, an ủi những người thất chí, mất niềm tin...v...v..
Làm được những điều này, dù rằng không lớn lao, nhưng chắc chắn rằng Thân Xác sẽ nở nụ cười, sẽ thấy lòng thơ thới, cảm nhận được niềm vui đến với mình. Ngay cả ở những giây phút cùng cực của cuộc đời, một hành vi tốt đẹp, một cử chỉ dịu dàng, một lời nói chứa chan, hòa nhã của Thân Xác đối với một người nào đó, cũng khiến cho Thân Xác rộn lên một niềm vui, một sự ấm áp trong lòng mình.
Tất cả những điều tốt đẹp mà Thân Xác đã đối xử với người Đồng Loại của mình, đều xuất phát từ ở những Tánh Tốt mà Thân Xác của Vong Linh đã thụ đắc được. Cứ mỗi lần Tánh Tốt được triển khai là Tâm Thức của Thân Xác lại ngời sáng lên, đưa tới một cảm giác thoải mái và dễ chịu.
Vong Linh đã hiểu qua về Nền Tảng Lương Tâm, bao gồm những Tánh Tốt lẫn Tánh Xấu. Có điều rằng, càng thực hành nhiều Tánh Tốt thì cái Nền Tảng Lương Tâm của Thân Xác sẽ càng rực rỡ hơn, trong khi những Tánh Xấu, nếu được thường xuyên triển khai, sẽ làm cho Nền Tảng Lương Tâm trở nên lu mờ và biến dạng.
Sau đây là những Tánh Tốt, Vong Linh cần chú tâm ghi nhớ, cần phải khắc ghi vào Tâm Thức. Khi trở lại cõi Ta Bà, chính những Tánh Tốt mới là vũ khí sắc bén giúp cho Thân Xác của Vong Linh đối phó với những Nghiệp Chướng ồ ạt đến với mình, đồng thời cũng nhờ vào những Tánh Tốt, mà việc gây tạo những NGHIỆP LỰC MỚI sẽ giảm bớt lần đi, và cũng có thể tạo nên rất ít và không lớn lao.
Càng có nhiều Tánh Tốt thì cái Nền Tảng Lương Tâm của Thân Xác của Vong Linh sẽ được vững chắc hơn trong kiếp Vị Lai.
1. Lắng Nghe:
Trong bất cứ một câu chuyện nào, ở vào hoàn cảnh nào, trường hợp nào, nếu có từ 2 người trở lên thì việc lắng nghe bắt buộc phải được thực hiện. Tại sao?
Cần phải lắng nghe mới có thể hiểu rõ được người đang đối thoại với mình muốn nói cái gì? Không thể nào 2 người hay 3 người nói cùng một lúc vì sẽ không ai hiểu được gì hết!
Có lắng nghe mới không hiểu SAI ý của người đang trình bày.
Nếu ý của người này không phù hợp với quan điểm của mình thì, thời gian lắng nghe sẽ giúp cho mình suy nghĩ lời lẽ để phản biện.
Nếu cả đôi bên đều biết lắng nghe ý kiến của nhau thì việc dung hòa những ý kiến bất đồng, hay những mâu thuẫn sẽ rất dễ dàng giải quyết, tránh được những xích mích đưa đến sân hận, dễ dàng đóng Vòng Nghiệp Lực.
Cần phải biết lắng nghe để tỏ rõ sự điềm đạm, sự bình tỉnh dẫn tới sự sáng suốt trong việc giải quyết một vấn đề gì.
Trên thương trường, một doanh nghiệp có nhiều hội viên cùng với nhiều ý kiến khác nhau, nếu vị Chủ Tịch của doanh nghiệp không biết lắng nghe ý kiến của từng hội viên, hoặc để sửa sai, hoặc để chỉnh đốn cho hoàn hảo hơn, doanh nghiệp sẽ có nguy cơ tuột dốc và gặp khó khăn trong việc phát triển.
Cũng cần phải lắng nghe để cảm thông với hoàn cảnh mà một người nào đó trình bày với mình, để xem coi mình có thể giúp được cho họ điều gì hay không?
Trong gia đình, việc lắng nghe của bậc Cha Mẹ đối với con cái vô cùng là quan trọng! Có lắng nghe mới biết ý của con muốn cái gì? Nếu cái muốn đó không hợp lý, hay tai hại, Cha Mẹ sẽ kịp thời ngăn chận và xoay chiều con mình về một hướng đi đúng. Trong vấn đề giáo dục, Cha Mẹ gần như lúc nào cũng phải sẵn sàng lắng nghe để ứng phó nhanh chóng trước những hành vi nông nổi, hay những tư tưởng sai lệch của con mình.
Vong Linh hãy ghi nhớ rằng, có giao tế là phải biết lắng nghe. Lắng Nghe để không ngộ nhận, lắng nghe để không nghĩ sai lệch, lắng nghe để quyết định đúng, lắng nghe để tránh xích mích, và nhất là lắng nghe để tránh cãi vã, đưa đến Sân Hận và dễ dàng đóng Vòng Nghiệp lực.
2. Biết Chia Sẻ:
Người Đời thường hay có câu nói "không ai giàu ba Họ, không ai khó ba Đời" và thành ngữ "lên voi xuống chó" để chỉ ra rằng, những thăng trầm của cuộc đời là lẽ thường tình. Hôm nay tôi sống trong nhà cao cửa rộng, một ngày nào đó tôi lại ở trong ngôi nhà tranh vách lá tồi tàn.
Những thăng trầm đó do đâu mà có? Chính là từ ở Nghiệp Lực của tôi!
Khi tôi còn được hưởng phước Dư, tôi sống cuộc đời thênh thang, không thiếu thốn. Khi Phước của tôi đã được tận dụng hết rồi mà tôi cũng không có một chút gì dành để hay là đắp bồi thêm, tôi sẽ bắt đầu đối mặt với Nghiệp Lực của tôi, chính là một hay nhiều món nợ khi xưa tôi đã vay, giờ đây tôi phải trả. Tùy theo món nợ NHỎ hay TO mà cuộc đời của tôi sẽ thăng trầm nhiều hay ít, lâu hay mau.
Giải nghĩa ra để cho Vong Linh thấy rằng, Mình với Người không có gì khác biệt cả. Ai cũng phải đối diện với Nghiệp Lực, ai cũng phải có lúc gặp cảnh khốn cùng. Mình sa cơ, rất mong có người giúp đỡ; Người lâm vào cảnh túng thiếu, ngặt nghèo cũng hy vọng có người cứu giúp, chở che. Do đó, phải biết Chia Sẻ!
Người thiếu ăn, hãy chia sẻ miếng ăn thức uống.
Người thiếu mặc, hãy giúp cho họ được lành lặn, ấm áp.
Người thiếu chữ nghĩa, hãy chia sẻ kiến thức cho họ.
Người thiếu nụ cười, hãy chia sẻ niềm đau, nỗi buồn với họ, giúp họ lấy lại niềm vui, niềm hy vọng trong cuộc sống.
Người đánh mất niềm tin, hãy khuyên lơn, an ủi, giúp họ vẽ lại con đường, để đi làm sao cho tới đúng bến bờ mà họ mong muốn.
Người đánh mất Lương Tâm, hãy kéo họ ra khỏi tầm ảnh hưởng của những Tánh Xấu của họ, chỉ dẫn cho họ thực hành những Tánh Tốt để giúp cho Tâm Thức của họ được bừng sáng lên.
3. Biết Tương Trợ:
Từ thuở xa xưa, Con Người đã có ý niệm sống "bầy đàn", sống hợp quần, tập họp nhau thành từng nhóm, từng đoàn, cùng nương tựa lẫn nhau, che chở cho nhau, người mạnh bảo vệ người yếu, người khỏe khoắn chăm sóc người ốm đau. Mỗi người một phần việc, mạnh mẽ thì làm công việc nặng nhọc, yếu đuối thì chăm lo những việc nhẹ nhàng. Tất cả đều nương nhau mà sống, trẻ em, người già cả, bệnh hoạn, tật nguyền luôn được chở che, bảo vệ. Đó chính là ý nghĩa của TƯƠNG TRỢ.
Qua nhiều năm tháng, đời sống vật chất càng lúc càng lên cao, con người triển khai cái Muốn quá nhiều nên sinh ra ích kỷ hẹp hòi, chỉ biết đến bản thân mình mà quên đi những người cùng sống chung với mình trong cộng đồng, trong xã hội, cho nên lơ là việc tương trợ.
Vong Linh hãy nhớ rằng, Tương Trợ chính là ý niệm khởi đầu cho sự hình thành từ Bộ Lạc đến Quốc Gia. Con Người không thể nào sống lẻ loi, đơn độc vì quá yếu ớt trước sức mạnh của Thiên Nhiên, của Thú Rừng, do đó bắt buộc phải sống hợp quần, nếu thiếu yếu tố Tương Trợ, ý niệm hợp quần sẽ khó thành tựu được.
Do đó, Vong Linh hãy khắc cốt ghi tâm điều này, để khi trở lại cõi Ta Bà, Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ không lơ là với việc Tương Trợ lẫn nhau, luôn luôn kết chặt thành một Khối, giúp cho cộng đồng, cho xã hội của mình ngày càng vững mạnh.
4. Có Lòng Thương Người, Thương Loài Vật:
NGƯỜI cùng LOÀI VẬT sống chung nhau trên Cõi Ta Bà, cùng thở chung một Bầu Không Khí, cùng uống chung một Nguồn Nước, cùng ham muốn Sự Sống, do đó Người không thể nào GHÉT Loài Vật được. Nếu đã không thể ghét Loài vật được thì Người lại càng phải biết THƯƠNG Người, vì đó là Đồng Loại với mình.
Còn một điều mà Vong Linh bắt buộc phải tư duy: Vong Linh đã hiểu rằng, việc trở lại làm Người trên cõi Ta Bà đòi hỏi rất nhiều Nhân Duyên, nhân duyên về Cha Mẹ, về Anh Chị Em, về Bà Con Dòng Họ, về người Phối Ngẫu trong tương lai...v..v.. Do đó, nếu không có sự giúp đỡ của Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát, Vong Linh không thể nào trở lại làm Người được. Bên cạnh đó, Vong Linh phải nhớ điều quan trọng là Thần Thức chỉ có MỘT, nhưng Thân Xác thì THIÊN HÌNH VẠN TRẠNG.
Thần Thức đó có thể trở lại cõi Ta Bà trong bất cứ hoàn cảnh địa lý nào, có khi là người Da Vàng, cũng có lúc là người Da Đỏ, hoặc người Da Trắng hay Da Đen. Thần Thức cũng trở lại trong những Môi Trường quen thuộc, kiếp trước làm Cha, kiếp này làm Chồng, làm Vợ; kiếp xa xưa là một Vị Vua, nhưng khi trở lại là một người bần cùng đói rách.
Nói tóm lại, tất cả những sự đổi thay trên Thân Xác đều có dính líu đến toàn bộ những Nghiệp Lực mà Thần Thức đó gây tạo ra từ quá khứ đến hiện kiếp. Nghiệp Lực thì chằng chịt như mạng nhện, chỉ có Thần Thức mới nhận chân ra được, chớ Thân Xác thì không làm được việc này. Do đó, Vong Linh phải hiểu rằng, khi Vong Linh còn trên Dương Thế, chung quanh Thân Xác của Vong Linh toàn là những người quen biết, chớ không phải là những người xa lạ.
Đã là quen biết nhau, thậm chí cũng đã từng yêu thương nhau, từng sống chung dưới một mái nhà, chung Dòng, chung Họ, thì tại sao ngày giờ này, ở hiện kiếp lại hững hờ nhau? Lại ghét bỏ nhau? Lại từ chối thương yêu nhau? Có phải chăng vì Thân Xác đã thay hình đổi dạng? Vì khác màu da, không cùng ngôn ngữ? Không cùng phong tục tập quán?
Một khi mà Tâm Thức đã bị bao vây bởi những rào cản đó rồi thì cái Tánh Xấu KỲ THỊ lại trỗi dậy và khiến cho cái Tâm trở nên Phân Biệt.
Loài Vật cũng có sự tương quan với Loài Người vì trong bất cứ con vật nào cũng đều có mang một Thần Thức bị Đọa. Đối xử tàn nhẫn, độc ác với con vật tức là mặc nhiên gây tạo Nghiệp Lực với Thần Thức bị đọa đó.
Còn một điều không kém quan trọng mà Vong Linh phải ghi nhận, đó là, trong số những Thần Thức bị đọa trong Loài Súc Sanh, Thân Xác của Vong Linh có chắc chắn rằng không có sự hiện diện của Thần Thức của một hay nhiều người Thân của mình hay không? Điều này hoàn toàn ngoài tầm hiểu biết của Thân Xác của Vong Linh.
Do đó, phải thương yêu Loài Vật, nếu không nuôi dưỡng, không chăm sóc nó thì cũng đừng nên đánh đập, đối xử tệ bạc với nó.
5. Biết Tha Thứ Lỗi Lầm của Người:
Trên Đời không có ai là hoàn hảo cả, nếu vì vô tình mà Người gây ra Lầm Lỗi với mình thì cũng nên tha thứ, đừng cố chấp, ôm Sân Hận trong lòng rồi tìm cách trả thù, vừa tạo nên rối rắm, mà cũng có thể đưa đến việc đáng tiếc, gây tạo nên Nghiệp Chướng.
Nếu đó là do sự cố ý gây Lỗi của Người thì mình cũng vẫn nên tha thứ. Luật Nhân Quả không chừa một ai cả, và thích ứng cho mọi Sự Vật, mọi Sự Việc. Vô ý tạo Lỗi Lầm mà cũng vẫn còn nhận Quả Trái không Lành, huống hồ gì đó là một Hành Động cố ý, được triển khai với cái Tâm Xấu Ác thì Nghiệp Chướng vẫn xảy ra. Việc Mình tha thứ cho Người, đó là Mình hành được Hỷ Xả, Tâm Mình sẽ An Bình, Cuộc Sống Mình sẽ phẳng lặng, thảnh thơi, để chi trong Lòng những phiền toái, âu lo, tất cả cũng chỉ vì 2 chữ TỰ ÁI. Buông bỏ Tự Ái xuống, tất cả sẽ trở về với một chữ HÒA.
6. Biết Nhận Lỗi và Nói Lời Xin Lỗi:
Khi đã làm lỗi rồi thì phải biết chân thành nhận lỗi và nói lời xin lỗi chớ không nói "lấp liếm" để chạy tội, vì làm như thế chỉ khiến cho tình huống thêm nặng nề hơn mà thôi.
Có một điều hơi trái ngược là, đời sống văn minh vật chất lên cao, con người càng học rộng hiểu nhiều thì Tự Ái càng lớn mạnh, do đó có nhiều hành vi, nhiều cử chỉ vô cùng ngổ ngáo, thiếu sự nhún nhường và bất cần, cho nên, trước một lỗi lầm do mình gây ra, chỉ cần nói lời thật tâm xin lỗi là mọi việc sẽ giải quyết êm xuôi, nhưng vì Tự Ái quá cao khiến cho chuyện nhỏ xé ra to và đưa đến biết bao nhiêu điều đáng tiếc xảy ra, tạo nên Nghiệp Chướng.
7. Biết Cám Ơn và Nhớ Ơn:
Ngay khi nhận của ai một vật gì hay một sự giúp đỡ nào, phải tức khắc nói lời Cám Ơn.
Cám ơn là một hành động nói lên sự lễ phép và có giáo dục của người nhận ơn; cám ơn còn là nguyên tắc căn bản của sự giao tế. Một sự tiếp xúc qua lại hằng ngày giữa 2 hay nhiều người sẽ không thể nào thiếu 2 tiếng Cám Ơn, đó cũng là một phép xã giao giúp cho sự giao tế được thắt chặt hơn, tránh sự lơ là hay hững hờ giữa những người cùng giao dịch với nhau.
Phải biết ghi nhớ Công Ơn của ai đó đã giúp cho mình qua được sự khó khăn hay một cảnh huống nào đó. Phải ghi nhớ Công Ơn để không phụ lòng người đã làm ơn cho mình. Cũng có thể rằng, khi ra tay giúp đỡ mình vượt qua những trở ngại nào đó, người làm ơn đã phải tốn hao công sức, đôi khi luôn cả tiền bạc nữa. Nếu người chịu ơn tỏ ra thiếu thiện chí, không cố gắng cải thiện, cứ tiếp tục để cho mình lâm vào điều không hay, rồi lại kêu gọi sự giúp đỡ một lần, rồi hai lần, chắc chắn rằng, người làm ơn sẽ không còn hứng thú để giúp thêm lần nào nữa cả.
Dù biết rằng có người quan niệm "làm ơn không cầu trả ơn", nhưng một lời Cám Ơn hay sự tỏ dạ Nhớ Ơn vẫn là xoa dịu được Tự Ái của người làm ơn cho mình, và giúp cho sợi dây Thân Ái giữa đôi bên luôn được bền chặt.
8. Hiếu Thảo Với Ông Bà, Cha Mẹ:
Ông Bà là Đấng Sanh Thành của Cha Mẹ, Cha Mẹ sanh ra con cái, do đó Con Cái bắt buộc phải kính trọng và hiếu thảo với Ông Bà và Cha Mẹ, như thế mới đúng với Đạo làm Con, làm Cháu.
Thời buổi Văn Minh, Tân Tiến, hầu như Thế Hệ TRẺ trên toàn thế giới mang một mặc cảm TỰ TÔN, cho rằng mình hiểu biết nhiều, ứng phó giỏi, hành xử đúng, do đó tỏ thái độ xem thường Ông Bà Cha Mẹ, nhất là đối với Ông Bà, những người này được xem như "món đồ cổ", không có một giá trị thiết yếu trong cuộc sống, do đó những lời khuyên, những điều chỉ dạy của Ông Bà rất ít khi được giới Trẻ nghe theo và hưởng ứng.
Đôi khi hàng con cháu lại tỏ ra ngổ ngáo và thiếu lễ độ đối với Ông Bà. Phải nhớ rằng, một cái cây muốn đứng vững, có thể chịu đựng được mưa to gió lớn không làm cho trốc gốc, cái cây đó đòi hỏi phải có bộ RỄ chằng chịt và ăn sâu, bám víu thật chặt vào Đất. Ngọn cây xanh tốt, cành lá sum sê là nhờ Rễ cây chuyển nhựa nguyên lên đến tận thân cây. Ông Bà, Cha Mẹ chính là bộ rễ cây cứng chắc, giúp cho cái cây đứng vững, có đủ sức mạnh mà cao vọt lên.
Hãy Hiếu Thảo và luôn Tôn Kính Ông Bà Cha Mẹ!
9. Biết Trì Chí, Nhẫn Nại:
Sự Thành Công ở bất cứ lãnh vực nào cũng đều đòi hỏi sự Trì Chí và Nhẫn Nại của người Thành Đạt. Có Công mài sắt thì mới có ngày nên kim!
Một đứa bé từ lúc mới chào Đời, còn đỏ hỏn, cho tới lúc trưởng thành, có thể xông xáo trên Đường Đời, đòi hỏi biết bao nhiêu Công Sức, bao nhiêu Mồ Hôi Nước Mắt, cũng có khi Máu Lệ tuôn tràn của Bậc Mẹ Cha. Cuộc Đời không trải bằng Hoa với Gấm, thường là phải đạp lên gai gốc mà đi. Một ngày qua là một ngày phải Nhẫn Nại, phải đem hết sức mình để đánh đổi lấy bát cơm, con đang mong chờ, con đang kêu khóc vì đói ở nhà!
Thân Xác Mới của Vong Linh có cảm nhận được sự Trì Chí, sự Nhẫn Nại của Mẹ Cha thì mới hành sử được cái Đức Tánh này trong việc nuôi dưỡng và dạy dỗ con cái của mình trong kiếp Vị Lai.
10. Biết Nói Lời Dịu Dàng, Từ Tốn, Thương Yêu, An Ủi và Lễ Phép:
Lời thốt ra khỏi Miệng xuất phát từ Tâm, từ Ý. Tâm Ý trong sáng luôn luôn chứa đựng tình cảm dạt dào, ý tưởng thanh cao, do đó lời thốt ra sẽ là những lời nhẹ nhàng có tính cách xoa dịu, an ủi và trìu mến. Lời thốt ra cũng là lời Khuôn Phép khiến cho người nghe thẩm định được Tư Cách của người thốt ra những lời nói đó.
Những lời nói cộc cằn, xấc xược, khó nghe thường là đầu mối đưa đến Sân Hận vì chắc chắn rằng sẽ chạm Tự Ái của người nghe, do đó, việc đóng vòng Nghiệp Lực rất dễ xảy ra.
11. Biết Cổ Võ, Biết Khuyến Khích để giúp cho một người tiến đến sự Thành Công:
Điều này nói lên rằng, sẽ không có sự Ganh Tị, Ghen Ghét khi thấy có người Tài Giỏi hơn mình.
Quốc Gia có tiến bộ, có hùng cường là nhờ vào sự đóng góp của những người tài giỏi, những nhà nghiên cứu, tìm tòi. Nếu cảm thấy rằng mình không đủ sức để có thể đem lại một kết quả tốt đẹp cho Quốc Gia của mình thì cũng đừng vì Tự Ái lên quá cao mà sinh ra Ganh Tị, Ghen Ghét với những người giỏi hơn mình, tìm cách triệt hạ họ hay giăng bẫy để làm cho họ "Thân Bại danh Liệt". Đó chính là cách làm cho Quốc Gia Dân Tộc mình càng ngày càng đi xuống, và cũng là hình thức đóng góp vào sự diệt vong của Đất Nước.
12. Biết Đối Xử Tốt với tất cả mọi người từ trong Gia Đình ra đến ngoài Xã Hội:
Một sự Đối Tốt sẽ nhận được sự Đãi Tốt. Phép Đối và Đãi luôn luôn rất cần thiết trong những mối tương quan giữa Người và Người, dù đó là Tình Thâm Ruột Thịt hay chỉ là Giao Tế thông thường.
Đừng tỏ ra lơ là hay bất cần trong việc đối xử với người trong gia đình, trong bà con dòng họ. Lúc nào cũng phải giữ đúng bổn phận, đúng tư cách hành xử của mình, không xem thường những điều nhỏ nhặt, vì chính những điều nhỏ nhặt mới đem lại sự không hay và dẫn tới một tình trạng trầm trọng bất ngờ.
Ngoài Xã Hội, cuộc sống hằng ngày có đầy dẫy sự chung đụng, cần rất nhiều sự nương tựa lẫn nhau, do đó mà sự đối đãi với nhau sao cho tương xứng là điều cần thiết phải quan tâm. Nghiệp Lực dễ dàng tạo nên cũng chỉ vì Người Đời không biết đối xử tốt với nhau!!
13. Luôn Luôn Chân Thật:
Sự Chân Thật trong Lời Nói, trong Cử Chỉ, trong Hành Động, trong cách Cư Xử với bất cứ Ai, vừa đem lại Hòa Khí, vừa đem lại một cảm tình tốt đẹp, mà cũng vừa tạo dựng được sự tin tưởng của người chung quanh đối với Mình.
Trong giao tế làm ăn mua bán, yếu tố Chân Thật vẫn là yếu tố hàng đầu giúp cho việc giao dịch được bền vững, lâu dài.
Mục đích chính yếu của một chính trị gia là tranh đấu bằng luật lệ để đem lại công bằng, sự lợi ích, những quyền lợi cho người dân đã tin tưởng mình và bầu mình lên để thay dân mà nói lên tất cả những nguyện vọng của dân.
Công việc này đòi hỏi yếu tố Chân Thật và hết lòng hết dạ của một chính trị gia trong khi hành xử công việc. Nếu người này chú tâm quá nhiều vào quyền bính, vào địa vị, vào quyền lợi cá nhân hay quyền lợi của Đảng Phái, chắc chắn rằng yếu tố Chân Thật sẽ không còn nữa.
14. Siêng Năng, Cần Mẫn:
Đây là Đức Tánh Căn Bản của sự Thành Công. Bất kỳ một sự Thành Đạt nào cũng đòi hỏi trước tiên phải Siêng Năng, Cần Mẫn. Người Biếng Nhác, Ù Lì, không cất nhắc nổi đôi chân của mình, làm sao có thể vượt qua được những trở ngại, những rào cản trên con đường tiến đến sự Thành Công?
Thiếu Siêng Năng, Cần Mẫn, bước tiến thủ sẽ trì trệ đưa đến việc giậm chân tại chỗ, khó lòng nhảy vọt lên để chụp bắt cơ hội tốt.
Muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, sung túc hơn, muốn lãnh hội một kiến thức dồi dào hơn, phong phú hơn, muốn đạt được một địa vị, một danh phận đúng như mình ao ước...bắt buộc phải Siêng Năng và Cần Mẫn.
15. Phải Rộng Lượng:
Người Rộng Lượng lúc nào cũng sẵn sàng mở rộng vòng tay đón tiếp kẻ bần hàn, khốn khó; dễ dàng tha thứ những lỗi lầm của kẻ khác, không câu nệ, không cố chấp, dễ cảm thông, và luôn Sống Hòa Đồng với mọi người trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tánh Rộng Lượng hoàn toàn đối nghịch với tánh Ích Kỷ Hẹp Hòi và giúp cho Tâm Thức dễ dàng tiến đến Từ Bi Hỷ Xả.
16. Bình Đẳng với Tất Cả Mọi Người:
Đức Tánh Bình Đẳng nói lên rằng, không có kẻ Giàu người Nghèo, không có kẻ Giỏi người Dỡ, không có kẻ Sang người Hèn, không có kẻ Thấp người Cao. Tất cả đều là y như nhau, hoàn toàn không có sự phân biệt.
Yếu tố cần và đủ để tạo dựng Nền Hòa Bình Thế Giới chính là Tánh Bình Đẳng. Ngày nào mà mọi người còn phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, phong tục tập quán, tiếng nói, văn hóa..v..v. .thì 2 chữ Hòa Bình sẽ còn rất xa vời, khó lòng thực hiện được.
Trong cách đối xử giữa Người và Người, thiếu sự Bình Đẳng sẽ dễ dàng đưa đến việc xích mích, gây gổ, cãi vã nhau, kỳ thị lẫn nhau, khiến cho Vòng Nghiệp Lực đóng lại trong chớp mắt.
17. Giữ Chữ Tín:
Một lời Hứa thốt ra khỏi Miệng, mang một sức nặng đến "Ngàn Cân", 4 con Tuấn Mã đuổi theo cũng không kịp! Giữ chữ Tín, giữ Lời đã Hứa để tạo sự Tin Cậy của kẻ khác đối với Mình, như vậy sự Giao Tế, mối Giao Hảo giữa Mình và Người mới lâu dài và tốt đẹp.
Tiếc thay, trong cuộc sống hằng ngày, giữa Người và Người, không phải lúc nào chữ Tín cũng được giữ gìn một cách đứng đắn. Người ta thất lời hứa chỉ vì mang tánh xấu Bất Lương, tánh Cướp Đoạt, tánh Lật Lọng, tánh Thích Thay Đen Đổi Trắng, kể cả cái tánh Thiếu Thủy Chung.
Người ta bất cần biết đến những thiệt hại gây ra từ ở sự Bội Tín của mình, do đó mà biết bao nhiêu Oan Trái đã gây tạo nên, và khiến cho Vòng Nghiệp Lực cứ quấn mãi không ngừng.
18. Khiêm Tốn:
Một sự Hạ Mình, Nhún Nhường không làm cho Mình Thấp Hèn, mà trái lại nâng cao Tư Cách Con Người của Mình. Nhún Nhường để tỏ ra mình không Tự Cao Tự Đại, không Hách Dịch và luôn luôn Sống Hòa Đồng với tất cả mọi người.
Một lời lẽ Khiêm Tốn vẫn luôn tạo một cảm tình sâu đậm trong lòng người đối diện. Nếu lồng trong sự khiêm tốn đó là một kiến thức sâu rộng, hay một tâm hồn Cao Thượng, hoặc một hành vi Nhân Ái thì chắc chắn rằng sự nể phục sẽ tăng cao.
Từ lời nói cho đến ngoại hình, đến cách đối xử đều tỏ ra Khiêm Cung, Nhún Nhường thì làm sao Nghiệp Chướng có thể gây tạo? Oan Trái có thể kết thành?
19. Trung Thành:
Người Trung Thành đem hết Tấm Lòng Chân Thật của mình để phục vụ cho một Cá Nhân, một Đoàn Thể, một Lý Tưởng...Họ sẵn sàng hy sinh tánh mạng để bảo vệ Tổ Quốc Quê Hương.
Một công dân trung thành với Quê Hương xứ sở của mình sẽ luôn luôn gìn giữ và bảo vệ truyền thống, tư tưởng, văn hóa, phong tục của Dân Tộc mình. Họ không có tinh thần vọng ngoại, đem văn hóa ngoại lai đè bẹp nền văn hóa của Đất Nước mình.
Một người lính trung thành với Tổ Quốc luôn luôn đặt Bổn Phận và Trách Nhiệm lên đôi vai trong việc giữ gìn bờ cõi và phòng chống sự xâm nhập của ngoại bang.
Một vị Tướng trung thành với Quốc Gia của mình sẽ không vì ham Danh, ham Lợi, mê say Quyền Thế mà bán đứng Quê Hương, Dân Tộc mình cho kẻ ngoại xâm.
Người lãnh đạo một Quốc Gia tỏ dạ trung thành với Tổ Quốc bằng cách áp dụng những đường lối cai trị sao cho thích hợp với trình độ Dân Trí, có những cải cách về mọi phương diện giúp nâng cao đời sống người dân, làm bớt đi những nỗi nhọc nhằn, tạo được một phần nào sự thoải mái trong cuộc sống của người dân.
Trên bình diện gần gũi nhất là Gia Đình, đức tánh Trung Thành của người Cha hay người Mẹ là điều kiện Cần và Đủ để cho Gia Đình hưng thịnh, để cho Tương Lai của Các Con được hoàn toàn Tốt Đẹp.
20. Có Tinh Thần Trách Nhiệm:
Người làm việc với một Tinh Thần Trách Nhiệm sẽ rất là Thận Trọng và hoàn toàn không Tắc Trách. Họ Để Tâm vào công việc, theo dõi những diễn tiến để kịp thời ngăn chận những phản ứng (nếu có) xảy ra.
Trước bất cứ một vụ án nào, dù lớn hay nhỏ, nếu vị Thẩm Phán không xử án với Tinh Thần Trách Nhiệm thì việc tuyên Án Oan sẽ dễ dàng xảy ra.
Nắm trong tay sanh mạng của mấy trăm người khách, nếu viên Phi Công không đặt hết Tinh Thần Trách Nhiệm vào công việc điều khiển chiếc máy bay, chỉ cần một sơ hở vô cùng nhỏ nhặt, phi cơ sẽ lâm nạn và cảnh chết chóc khó lòng tránh khỏi.
Trong cuộc sống hằng ngày, hãy tập làm việc với Tinh Thần Trách Nhiệm để công việc được hoàn tất một cách tốt đẹp và không uổng công sức đã đưa ra.
21. Biết Hy Sinh:
Người biết Hy Sinh quên Bản Thân mình để lo cho người khác. Họ quên đi Quyền Lợi của mình mà chắt chiu Quyền Lợi cho kẻ khác. Họ từ bỏ những Tiện Ích, những Lợi Lạc, những Thú Vui để nhường lại cho người kém Phước hơn mình, cần thiết hơn mình; thậm chí đến cả Sanh Mạng của mình, nếu vì một Chánh Nghĩa cần phải bảo vệ, họ vẫn sẵn sàng Hy Sinh.
Ý nghĩa Hy Sinh thể hiện rất nhiều qua nền tảng Gia Đình. Trong một gia đình nghèo khó, thiếu trước hụt sau, tất cả những dành để, góp nhặt, chắt chiu của Cha Mẹ cho con cái, hay thậm chí của Ông Bà cho con cháu, đều là một sự Hy Sinh vô cùng tận của Thế Hệ trước dành cho Thế Hệ sau với tất cả sự mong mỏi, niềm hy vọng là Con hay Cháu của mình sẽ khá hơn mình, tốt đẹp hơn mình. Với chí Tiến Thủ, chăm lo học tập, may ra Con hay Cháu sẽ thoát được cảnh nghèo khó, túng cùng, và có cơ hội vươn lên.
Hỡi Vong Linh,
Vong Linh đã được cắt nghĩa rất rõ ràng, rành mạch từng Tánh Tốt. Vong Linh hãy khắc cốt ghi Tâm những Tánh Tốt này để khi trở lại cõi Ta Bà, Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ được bao bọc bởi những Tánh Tốt. Nhờ vào những Tánh Tốt này, Thân Xác Mới sẽ được cải thiện hơn về tư cách Con Người, mọi hành xử sẽ tốt đẹp hơn, Nhân Ái hơn, đắc Nhân Tâm hơn, và đương nhiên là với nhiều Tánh Tốt có được, Thân Xác Mới sẽ bớt đi rất nhiều việc gây tạo Nghiệp Chướng với người Đồng Loại.
Nghiệp cũ thì vẫn phải trả, nhưng với những Tánh Tốt sẵn có thì việc đối đầu, việc giải quyết những cảnh huống cũng sẽ dựa trên nền tảng của những tánh Tốt, do đó mà làm dịu đi sự hung hăng của Nghiệp Lực. Những Tánh Xấu đã bị triệt tiêu, sẽ không thể nào tiếp tay với Nghiệp Lực để mà quậy phá, làm cho cuộc sống của Thân xác Mới gặp nhiều khó khăn.
Khi Thân Xác Mới có được nhiều Tánh Tốt, cứ mỗi lần Thân Xác làm được việc tốt đẹp, đem lại lợi lạc cho Người thì Tâm Thức sẽ sáng rực lên. Càng có nhiều Tánh Tốt khởi sắc,Tâm thức càng sáng lên, ngọn đèn Trí Huệ lóe sáng, giúp cho Thân Xác nhận định được điều Đúng hay Sai trong việc giải quyết những khó khăn trong cuộc sống.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt. Vong Linh cố gắng tư duy thật sâu sắc từng Tánh Tốt để khắc cốt ghi Tâm những Tánh Tốt này, giúp cho hành trang trở lại Cõi Ta Bà được đầy đủ và hoàn hảo hơn.
Ngày thứ 23:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Trong cuộc đời mới vừa qua trên Dương Thế, Vong Linh có từng bao giờ kiểm tâm của mình trước khi làm một việc gì, hay quyết định một việc gì hay không?
Tại sao phải kiểm tâm? Mọi sự việc, mọi sự vật trên cõi đời đều khởi đầu từ những điều rất là nhỏ nhặt. Những điều nhỏ nhặt này không khác những đợt sóng gợn lăn tăn trên biển cả do từ những cơn gió thật nhẹ thổi vào. Rồi thì đến một lúc nào đó, những cơn gió nhẹ bỗng góp thành bão tố và tạo nên những đợt sóng thần đổ ập vào đất liền, cuốn trôi cả làng mạc, ruộng vườn, nhà cửa, tạo nên một cảnh tượng hoang tàn, đổ nát, đìu hiu.
Đại nạn sóng thần không thể nào tự nhiên mà xảy ra, mà đó là một sự tích tụ…...tích tụ của phong ba bão táp để cuối cùng là một sự bùng lên dữ dội của những đợt sóng gợn lăn tăn, trông có vẻ hiền hòa, nhỏ nhoi, nhưng lại tiềm ẩn một sức mạnh vô cùng cực, phá hủy tất cả những gì mà đợt sóng quét ngang qua.
Một sự thờ ơ, thiếu để ý, thiếu sự đề phòng trước từng cơn gió thổi, trước từng đợt sóng tạt vào bờ, sẽ mang lại những tai họa bất ngờ, những thiệt hại không lường trước được.
Cũng như thế, trong cuộc đời của kiếp mới vừa qua, Thân Xác của Vong Linh đã sống vô cùng lãnh đạm với từng tư tưởng, với từng lời nói, từng cử chỉ, từng hành động của mình.
Thân Xác không hề biết kiểm tâm, kiểm ý để thẩm định sự tư duy của mình, để cân nhắc lợi hại của từng hành động, từng cách đối xử của mình với người Đồng Loại. Thân Xác cũng chưa hề bao giờ biết "uốn lưỡi 7 lần" trước khi cất tiếng nói với bất cứ ai mà mình giao tiếp.
Vì không biết kiểm tâm, kiểm ý, cho nên lời thốt ra không tạo được hòa khí với người chung quanh. Đối diện với bất cứ cảnh huống nào, Thân Xác cũng chỉ là làm theo bản năng của mình, mà làm theo bản năng tức là làm theo cái tánh, có nghĩa là nương theo cái tánh xấu của mình mà phản ứng, chớ chưa bao giờ tìm hiểu xem cảnh huống đó từ đâu mà có?
Thiếu sự kiểm tâm nên không thể nào tìm ra một giải pháp hay để vượt qua cảnh huống đó, cho nên việc tạo ra thêm những rắc rối, làm cho tình huống càng trở nên bi đát, khó tháo gỡ, khó giải quyết…. là việc đương nhiên!
Chả trách sao mà Thân Xác cứ đi từ lầm lỗi này đến lầm lỗi khác, và càng ngày càng sa lầy, chẳng những gây thiệt hại cho chính bản thân mình, mà còn tạo một tầm ảnh hưởng sâu đậm và rộng rãi đến gia đình, dòng họ, đôi khi đến cả xã hội hay quốc gia dân tộc nữa!
Vì thiếu tư duy, bất cần việc kiểm tâm, kiểm ý, vì xem thường tư tưởng, không kềm chế những thói hư tật xấu của mình qua việc hành động theo bản năng, cho nên Thân Xác đã đón nhận nhiều thiệt hại, nhiều mất mát, đôi khi đưa đến sự thiệt thân! Đó là chưa kể đến việc làm xáo trộn trật tự xã hội của nơi mình sinh sống.
Mọi người được hô hào, kêu gọi ủng hộ cuộc biểu tình nhiều ngày để phản đối về một yêu sách nào đó; những kẻ phá hoại đã lợi dụng đám đông để đập phá, cướp bóc những hàng quán, cơ sở thương mại chung quanh, đám người biểu tình đã không ngăn cản mà tỏ ý lờ đi như một thái độ biểu đồng tình với kẻ phá hoại.
Nếu làm theo bản năng thì cuộc biểu tình này sẽ được rất đông người hưởng ứng vì đây là cơ hội để tỏ lộ cái quyền phát biểu của người dân trong một quốc gia, bên cạnh đó cũng là một dịp để họp bạn vui đùa thỏa thích.
Tuy nhiên, nếu biết kiểm tâm, kiểm ý, trước khi tham dự cuộc biểu tình, người tham gia sẽ tìm hiểu một cách rõ ràng mục đích của cuộc biểu tình, yêu sách đưa ra có chính đáng hay không? Có thể bị kẻ xấu giựt dây hay không? Người biểu tình có là công cụ cho một tổ chức nào đó hay không?
Việc bạo động gây nên sự thiệt hại cho những cơ sở thương mại trong vùng có thể chấp nhận được hay không? Có thể đưa đến tình trạng xáo trộn trật tự xã hội hay không?
Nếu là cơ hội để phát biểu lập trường hay ý kiến nhằm cải tổ đường lối, chính sách của chính quyền để làm cho mọi việc được tốt đẹp hơn đối với người dân, thì tại sao lại đi kèm với hành động đập phá, hủy hoại tài sản của những người dân cùng một đẳng cấp với mình?
Có tư duy, có cân nhắc, có phân tích, chắc chắn sẽ không có sự a dua, hùa theo một cách vô lý để có thể đưa đến một tình trạng hỗn độn, mất trật tự, thiếu chính nghĩa, cũng như tạo một sự hiểu lầm tai hại giữa chính quyền và người dân.
Tất cả mọi việc trên đời, muốn được tốt đẹp và như ý đều phải hành sử với một chữ HÒA. Muốn có được hòa khí, bắt buộc phải luôn kiểm tâm và kiểm ý. Có như thế, lời thốt ra mới chín chắn, cử chỉ mới tốt đẹp, quyết định mới đúng đắn, hành động mới đáng nể phục, không sợ thiệt thân, mà cũng không lo làm liên lụy đến gia đình, dòng họ.
Cần phải luôn luôn kiểm soát tâm ý của mình để giữ vững thế chủ động. Thiếu sự kiểm soát sẽ khó lòng làm chủ tâm của mình, và cũng sẽ rất khó để lôi kéo tâm trở lại theo ý của mình, e rằng khi đó sẽ phải tốn rất nhiều công sức và đôi khi chịu nhiều mất mát.
Phải luôn luôn đề phòng những điều nhỏ nhặt từ tư tưởng đến hành động; đừng xem thường hạt bụi, làm cho mắt bị xốn lên chính là hạt bụi chớ không phải là hạt cát đâu! Cũng thế, những rối rắm khiến cho tình huống càng trở nên nghiêm trọng xuất phát từ ở việc thờ ơ, thiếu để ý, thiếu suy tư về những chi tiết vô cùng nhỏ nhặt của một vấn đề nào đó.
Trong cuộc đời vừa qua, chắc chắn rằng Thân Xác của Vong Linh cũng đã từng có những giây phút nông nổi trong lời nói, trong cử chỉ, trong hành động hay trong những quyết định của mình. Điều này xảy ra bàng bạc trong cuộc sống từ lúc thanh xuân cho đến khi chân mỏi gối chùn, chẳng qua là vì Thân Xác đã thiếu sự kiểm tâm, kiểm ý trong mọi việc mà mình hành xử. Điều này dễ dàng đưa đến những sự phiền hà, những thất vọng, sự đánh mất niềm tin trong cuộc sống.
Ngày hôm nay, Vong Linh đã được vạch vòi, chỉ bảo để nhận ra những sai lầm của mình trong kiếp vừa qua. Vong Linh hãy cố gắng lên, hãy chộp bắt cơ hội 49 ngày đặc ân này để mà tận lực, tận cường sửa đổi tất cả những gì đã không đem lại điều tốt đẹp cho mình trong kiếp mới vừa qua, cơ hội sẽ khó đến hai lần.
Nhờ vào sự chắt chiu sửa đổi, sự hoán chuyển những tánh xấu thành tánh tốt của Vong Linh, mà cuộc đời ở kiếp vị lai sẽ trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp và thoải mái hơn.
Bài Pháp hôm nay đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 24:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Vong Linh phải biết rằng, 90% nghiệp chướng mà con người gây tạo nên, đều bắt nguồn từ cái miệng.
Trong miệng có lưỡi, nhờ có lưỡi mà con người mới nói được, mới diễn đạt được tư tưởng của mình.
Người ta sẽ không nói được nếu không có cái Lưỡi! Tuy nhiên, nếu người có Lưỡi mà nói những điều quá sai lầm thì sẽ không khác gì người bị mất Lưỡi vậy!
Trong phép Nói, cũng có rất nhiều cách. Nói như thế nào mà làm cho Nhà tan Cửa nát, nói mà dẫn đến Hạnh Phúc ly tan, nói mà làm cho Thâm Tình bị xé rách, nói mà Tình Bằng Hữu cũng không còn.
Cái Lưỡi có thể quậy cho tan, phá cho nát, nhưng ...cũng chính cái Lưỡi hàn gắn mọi đổ vỡ, mọi nát tan. Hạnh Phúc được tạo dựng, Sự Nghiệp được vươn lên, Tình Tương Thân Tương Ái được kết chặt, Tình Thương Yêu càng thấm đượm, Lòng Tin Tưởng càng gia tăng, Sự Ủng Hộ càng mạnh mẽ….Tất cả những sự thành tựu đó đều xuất phát từ cái Lưỡi!
Từ đó suy ra để thấy rằng: NÓI là một hành động vô cùng quan trọng. Ngoài cái công việc làm chất kết dính, khiến cho mọi người đoàn kết nhau, NÓI còn có khả năng tách rời khiến cho ly tán, khiến cho lũng đoạn, khiến cho hủy hoại.
Qua cách NÓI, người nghe có thể hiểu được, cảm thông được Tâm Tư của người đang nói, và người ta cũng dễ dàng nhận ra được sự Thành Thật nhiều hay ít qua cách diễn tả từ trong lời nói.
"Uốn lưỡi 7 lần mới nói", câu Châm Ngôn này nhắc nhở mọi người phải luôn luôn thận trọng trong lời nói của mình. Không nói quá nhanh, quá vội vàng để khỏi bị HỐ vì thiếu suy nghĩ, thiếu đắn đo, thiếu cân phân lợi hại. Không nói bằng đầu lưỡi, vì lời ở đầu lưỡi là những lời dễ tan biến theo mây khói, không thể tin tưởng được. Không nói trong cơn giận dữ vì khi giận thì mất KHÔN, không còn đủ sáng suốt để nhận chân điều đúng sai. Không buông lời có tính cách quyết định khi Tâm Tư mình đang rối bời, không ổn định, thiếu bình tỉnh.
Nên nói lời tốt đẹp, mang lại sự Bình An, sự Vui Tươi, niềm Hòa Khí, hơn là nói lời làm Phá Nát hay Đổ Vỡ bất kỳ một cái gì, và Tai Hại hơn cả là nói những lời Oan Tình cho kẻ khác.
Chính vì vậy mà bắt buộc phải rất thận trọng trong lời nói của mình. Con người thường hay quá xem thường hành động NÓI, cho nên đã liên tục gây tạo nhiều nghiệp lực, nhiều oan trái với nhau qua cái miệng.
Cái Miệng là CHỊ của cái TÂM! Điều đó có nghĩa rằng: Cái Miệng thay thế cái Tâm để diễn tả tất cả những gì nằm tận sâu trong những cái Thức của mình. TÂM THỨC là Trái Tim của các Thức. Một ý tưởng vừa "mống" lên là Tâm Thức đã bật đèn sáng lên rồi, tất cả các Thức khác đều sẵn sàng chờ đợi nhận việc từ ở Tâm Thức. Cho nên, nếu không chỉnh lời ăn, tiếng nói của mình thì Tâm Thức sẽ dung chứa toàn là những Ý Tưởng quấy trá, không tốt đẹp, tạo nên ảnh hưởng XẤU cho tất cả các Thức, mà chính những cái Thức đó lại là đầu mối gây tạo Nghiệp Lực.
Cho nên, cái miệng không bao giờ xa rời cái Ý và cái Tánh, do đó, phải thận trọng vô cùng mỗi khi thốt lời! Nói mà nên nhà nên cửa, nên Người nên Việc thì... nên nói. Nói mà đem lại sự đau khổ, sự bất lợi đến cho kẻ khác thì Nghiệp Lực sẽ sanh ra.
Người đời rất thích NÓI nhưng lại lười suy nghĩ, kém tư duy; chỉ nói những lời trên đầu Lưỡi và rất vội vàng trong khi NÓI.
Chính vì lười suy nghĩ và thiếu tư duy cho nên không thận trọng trong lời ăn tiếng nói, do đó mà vô số Nghiệp Chướng đã, hoặc vô tình hay cố ý, gây tạo nên qua cái Miệng.
Người đời cũng tỏ ra rất hứng khởi và thích thú để biết chuyện nhà Người, để bàn chuyện nhà Người, để phẩm bình chuyện nhà Người, để chỉ trích một AI đó. Nói tóm lại, Chúng Sanh rất...rất Thích Thị Phi!
Người thích Thị Phi thường hay nghĩ quấy cho kẻ khác, có đôi khi vẽ trong đầu mình nguyên cả một bức tranh do mình tưởng tượng ra về tất cả những hành vi của kẻ khác. Tâm Tư của họ chứa toàn những điều mà họ vạch lá tìm sâu nơi kẻ đó, họ cố tìm cho ra những điểm nào mà người đó thua sút họ, để họ tự hào và hả hê về bản thân của họ.
Thị Phi dẫn đến tình trạng gấu ó nhau, chưởi bới nhau, lời qua tiếng lại, sân hận khi dâng cao sẽ đi đến việc đập lộn lẫn nhau, và có đôi khi thanh toán nhau "không thương tiếc". Thị Phi không những với Người ngoài, mà còn cả với Bà Con ruột thịt, với Cốt Nhục Tình Thâm của mình nữa.
Cho nên, phát ngôn bừa bãi, thiếu suy nghĩ, kém tư duy, nói lời hung ác, mỉa mai người khác, nói lời xằng bậy, đâm thọc hay thêu dệt, cũng như thị phi chuyện nhà Người, đều là những cách Gây Tạo Nghiệp Lực qua cái MIỆNG, cần phải khắc cốt ghi tâm triệt tiêu để không còn đeo đẳng nữa khi Vong Linh trở lại cõi Ta Bà.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 25:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Hãy nhìn lại cuộc đời của kiếp mới vừa qua, Vong Linh có nhận ra hậu quả của cái Tánh hững hờ, bất cần của mình hay không? Có lẽ vì cái tánh đó được cho là nhỏ nhoi, quá tự nhiên, nên người đời ít ai để ý đến!
Thật sự ra, nếu nói về hậu quả của tánh xấu thì không có một tánh xấu nào được xem là "nhỏ nhoi" cả. Tánh xấu nào cũng có thể khiến cho người mang tánh xấu đó gây tạo ít nhiều nghiệp chướng.
Con cái trong gia đình sống quá hờ hững với Ông Bà, Cha Mẹ, không để ý từng diễn biến trong cuộc sống của Đấng Sanh Thành; miếng ăn, giấc ngủ, bệnh trạng không được chăm sóc, sức khỏe lụn dần, cho đến một ngày nào đó, đột biến xảy ra, chẳng những tác động lên thân thể của Ông Bà, Cha Mẹ, mà còn ảnh hưởng nặng nề đến đời sống thường nhật của con cái nữa.
Thử đặt câu hỏi: nếu cha mẹ bỏ bê con cái từ lúc mới chào đời, không chăm sóc, dưỡng nuôi, liệu rằng đứa con có thể sống còn và lớn lên được hay không?
Tánh hững hờ đã biến đứa con trở thành bất hiếu đối với ông bà cha mẹ. Đạo Hiếu vô cùng cao cả, thờ Phật ở chùa không bằng thờ Cha kính Mẹ ở nhà.
Bên cạnh cái tánh hững hờ lại thêm cái tánh bất cần, càng làm gia tăng cường độ bất hiếu của đứa con đối với ông bà cha mẹ. Có bao giờ đứa con bất hiếu chịu nghe lời khuyên bảo, dạy dỗ của ông bà cha mẹ đâu?
Dưới mắt của đứa con bất hiếu, lời khuyên của ông bà cha mẹ làm sao sánh được với lời chỉ dạy của bạn bè, của những người quen biết! Đứa con này có biết đâu rằng, mình đang bị bao vây bởi những giọng kèn tiếng quyển, bởi những lời tưởng là ngọt dịu nhưng chứa toàn là lợi dụng, là gươm đao, đem điều tai hại đến cho mình.
Bất cần lời khuyên bảo cho nên dễ dàng làm những điều bất lương, bất nhân, bất nghĩa với người đồng loại của mình, và cũng sẽ không ngạc nhiên nếu một ngày nào đó, đứa con này sẵn sàng nhúng tay vào những hành động bất trung, phản bội lại Quê Hương Tổ Quốc của mình.
Không có tánh xấu nhỏ hay tánh xấu lớn. Vong Linh phải luôn luôn ghi nhớ rằng, bất cứ tánh xấu nào cũng dẫn đến việc tạo nên nghiệp lực. Chính nghiệp lực mới khiến cho Thần Thức khó lòng siêu thoát, cứ phải trôi lăn trong vòng sanh tử, đắm chìm trong biển trầm luân.
Do đó, Vong Linh phải tuyệt đối triệt tiêu những tánh xấu, gột rửa lần những tánh xấu để cho Thần Thức của Vong Linh mới có cơ hội tiến lần đến sự Thăng Hoa.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 26:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Vong Linh đã được chỉ dạy để hiểu rằng, mọi sự vật, sự việc trên đời, dù nhỏ như hạt bụi cũng vẫn bị chi phối bởi Nhân và Quả, và tác động của nhân và quả gây tạo nên Nghiệp Lực.
Chính cái Nghiệp Lực mới lèo lái một Thần Thức chạy không ngừng nghỉ trong sáu nẻo Luân Hồi.
Đã là một Chúng Sanh của cõi Ta Bà thì dù thuộc về một dân tộc nào, hay bất cứ màu da, chủng tộc, ngôn ngữ nào, thậm chí đến tôn giáo hoàn toàn khác biệt, vẫn không có sự ngoại lệ đối với Luật Nhân Quả. Một khi nhân quả đã xuất hiện rồi thì tức khắc có Nghiệp Lực đi kèm. Tín ngưỡng là những nghi thức ở mặt ngoài, hướng dẫn cho người theo tín ngưỡng đó đi trên con đường mà tín ngưỡng đó đã vạch ra với mục đích tiến đến cái Toàn Chân, Toàn Bích.
Tuy nhiên, có đặt chân trên mặt đường mới biết được mặt đường có bằng phẳng hay gập ghềnh; có lội qua suối mới biết suối sâu hay suối cạn; có băng rừng mới biết rừng thưa hay rừng già; và có chạm tay vào vách núi mới cảm nhận được vách núi lài hay sừng sững.
Đó là tất cả những vướng mắc mà Thân Xác đã trải nghiệm, những khổ đau mà Thân Xác đã trải qua, đã hứng chịu trong suốt cuộc đời của mình ở kiếp mới vừa qua. Tất cả những vướng mắc đó chính là những mắt xích của Nghiệp Lực đã theo đuổi mình từ nhiều kiếp đã qua, đã tạo nên biết bao nhiêu cảnh huống trong cuộc đời vừa qua của Vong Linh.
Người không thiết tha với Đạo, chưa từng đặt chân trên con đường Đạo, không biết sử dụng những phương tiện của đường Đạo để chỉnh sửa đường Đời của mình, để giúp cho bước chân của mình không còn bị vấp phải chông gai, hầm hố nữa, họ bèn tìm đến những người tự xưng là chiêm tinh gia, các vị chuyên nghiên cứu về tử vi, bói dịch, các vị chuyên gia về cầu cơ, lên đồng, gọi hồn và thậm chí họ còn sử dụng Tà Đạo để cầu tìm một sự an bình cho cuộc đời mình.
Con đường Đời đang bằng phẳng, nay bỗng nhiên gặp phải hố sâu vực thẳm, Chúng Sanh đâm ra bỡ ngỡ, Chúng Sanh hốt hoảng, Chúng Sanh cầu cứu, Chúng Sanh kêu la giúp đỡ. Chúng Sanh cầu viện người giải quyết sự khó khăn cho mình, trong khi nếu Chúng Sanh chịu khó suy nghĩ và tháo vát một chút, sẽ thấy rằng: chỉ cần tìm một miếng ván bắt qua cái hố là sẽ có thể tiếp tục con đường của mình rồi. Bản chất ù lì biếng nhác suy tư, hay lo sợ hão huyền và trí tưởng tượng khá phong phú sẽ đưa Chúng Sanh dễ dàng vào việc Mê Tín Dị Đoan.
Bản tánh Mê Tín Dị Đoan khiến Chúng Sanh dễ tin vào những điều mờ mờ ảo ảo của người được cố vấn. Những lời của người này, thậm chí đến một giải pháp nào đó (nếu có) vẫn là những lời vô thưởng vô phạt, không có sự đoan chắc, và không có một sự giải thích rõ ràng. Trước một sự việc khó khăn nào đó xảy ra, người đoán vận mệnh khó lòng giải thích lý do tại sao việc khó khăn hiện hữu, làm thế nào để chấm dứt sự khó khăn? Họ chỉ có thể báo động rằng: sẽ có việc không hay xảy tới, còn việc xảy tới như thế nào, có thể giải quyết ra làm sao, được hay không, họ cứ mập mờ và gieo vào đầu óc của người mê tín nhiều câu hỏi để cho dịp gặp gỡ vào kỳ tới.
Hầu như Chúng Sanh nào của cõi Ta Bà, từ Đông sang Tây, cũng đều thích xem tử vi; đó chính là một bản minh họa cuộc đời của một con người qua sự vận hành của các vì sao. Chúng Sanh tin tưởng rằng, cuộc đời của mình sẽ tốt đẹp, sẽ thuận lợi nếu được nhiều vì sao tốt vận hành chung quanh, và điều này cũng giúp cho những chiêm tinh gia lợi dụng sự mê tín dị đoan để tha hồ đặt điều, đặt chuyện hầu moi tiền của thân chủ.
Sở hữu chủ của một bản tử vi mang đầu óc quá nhiều Mê Tín Dị Đoan thì chắc chắn rằng chính họ sẽ tự hủy diệt đời họ.
Một người sở hữu một bản tử vi được cho là "cực kỳ tốt", tức khắc phản ứng ngược sẽ xảy ra. Tánh tự cao, tánh háo thắng, tánh bất cần, tánh xem thường kẻ khác, tánh thiếu chia sẻ, tánh thiếu sự nhẫn nại, thiếu trì chí và nhất là tánh ù lì, biếng nhác, thiếu tháo vát... sẽ lôi kéo người này tuột dốc rất nhanh, khiến cho họ sẽ không có dịp để phô trương những cái cực kỳ tốt trong cuộc đời của mình qua bản tử vi.
Người được các chiêm tinh gia báo động cho biết là cuộc đời mình sẽ toàn gặp những vì sao XẤU vận hành chung quanh, người này sẽ đâm ra thất chí, không còn sự tự tin, đánh mất đi niềm hy vọng trong cuộc đời, bỗng trở nên nhục chí, chán nản, không còn sức phấn đấu, dần dà đi đến việc mất tự chủ bản thân mình, buông xuôi, rất dễ dàng nảy sinh ý định tự tử.
Trong đời sống hằng ngày, Chúng Sanh đã để quá nhiều Mê Tín Dị Đoan vào trong cuộc sống của mình. Đời sống vợ chồng, hạnh phúc gia đình bị đổ vỡ, xáo trộn cũng chỉ vì vợ hay chồng không nhận chân ra được một Nghiệp Lực đã đứng chận giữa hai người, kẻ là con nợ, người là chủ nợ; đúng lý ra phải có kẻ đòi, người chịu trả thì cuộc hôn nhân mới có cơ hội kéo dài cho đến khi nợ nần rũ sạch, cả hai đều phủi tay trong nhẹ nhàng êm ả. Đằng này, cả hai đều giằng kéo nhau để dành phần thắng, cuối cùng kẻ thua cuộc đâm ra sân hận và lao vào tà Đạo, sử dụng bùa ngải để hãm hại người phối ngẫu của mình, cũng chỉ vì để thỏa mãn hai chữ Tự Ái mà gieo thêm nghiệp chướng nếu đó là con nợ phối ngẫu, chưa trả dứt nợ cũ, giờ lại gia bồi thêm nghiệp mới!
Một kẻ mang bệnh tật trong người, không lo việc chữa trị, không tìm cách để gia tăng thể lực của mình hầu tiếp tay với bác sĩ để đẩy lùi bệnh tật, lại đi tìm xin bùa ngải của ông này, bà nọ để chữa trị, cuối cùng thì tiền mất tật mang, tất cả cũng chỉ vì quá Mê Tín Dị Đoan.
Người Đời thường ít khi nhìn ngắm, tư duy từng quãng đời của mình, phân định được quãng đời nào Tốt, quãng đời nào Xấu. Sự tốt hay xấu của từng quãng đời đều phản ảnh hầu hết các nghiệp chướng đã gây tạo từ trong quá khứ, và đôi khi cả luôn ở hiện kiếp nữa.
Giai đoạn nào xem như không được vừa ý lắm hay thậm chí "quá tệ", Chúng Sanh phải biết cách mà sửa chữa, sửa chữa bằng việc tu tập, sửa chữa bằng cách hành thiện, sửa chữa bằng cách kiểm tra tất cả các tánh từ tốt đến xấu của mình để chỉnh trang, để giùi mài, để trau giồi.
Giai đoạn nào "tốt" thì sẽ không lấy đó để làm niềm hãnh diện, mà trái lại, càng tốt nhiều, càng phải chia sẻ nhiều thì mới có thể giữ được cái tốt đẹp đó lâu dài.
Một người mang nhiều tật bệnh, nhất là bệnh nan y, tức khắc phải hiểu rằng, đó là kết quả của những Nhân Hạt không Lành mà mình đã gieo rắc từ trong quá khứ. Ngày giờ này quả đã chín muồi, tất nhiên phải rơi rụng thôi! Nghiệp Chướng mình đã gây tạo thì chỉ có sự tha thiết, lòng chân thành Sám Hối ăn năn mới có thể làm xóa tan nghiệp chướng được. Bên cạnh đó, một sự cướp đoạt cái gì đó của kẻ khác, ngay cả sanh mạng của kẻ đó, cũng phải được đền bù hồi hướng bằng tất cả Công Đức của việc thành tâm hành trì Sám Hối-Trì Chú-Niệm Phật mỗi ngày của mình, việc chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh, cũng như tất cả Phước Đức gom góp được từ những việc hành Thiện của mình.
Ý nghĩa của Luật Nhân Quả là mang lại một sự công bằng đúng nghĩa giữa Người và Người mà không có bất cứ một ngoại lệ nào cả. Dù cho đó là một vị Vua, một nhà Quý Tộc, một Danh Tướng, một Đại Thần, một kẻ chọc Trời khuấy nước….nếu đã từng tạo nên oan trái, đã từng bất chấp luật Nhân Quả mà làm hại đến quyền sở hữu, đến sanh mạng của kẻ khác, thì sớm hay muộn, kẻ đó cũng sẽ nhận lấy quả chín muồi rơi vào chính túi áo của mình mà không sao tránh được.
Do đó, mọi việc trên đời không có sự ngẫu nhiên mà thành! Tất cả đều là hậu quả của việc mình đã làm hoặc ngay trong hiện kiếp, hoặc trong khoảng thời gian nào đó trong quá khứ. Mình đã làm thì việc mình nhận hậu quả là việc đương nhiên, tuyệt đối không có sự kêu ca là oan tình, là không hợp lý.
Ngày hôm nay, dưới hình hài của một Vong Linh, nhìn lại cuộc đời của kiếp mới vừa qua, chiêm nghiệm về những hành động mình đã làm, Vong Linh có nhận ra những sai lầm của mình hay không? Những cái gọi là "cảnh huống" bàng bạc trong cuộc đời của Vong Linh chẳng qua là sự thể hiện của những Nhân Hạt không Lành đã được Vong Linh gieo trồng từ trong quá khứ. Thời gian đã đủ để nhân hạt trổ cây ra quả, và quả đó chính là quả Đau Khổ, quả Nhọc Nhằn, quả Đắng Cay, quả Thương Tâm, quả Nghèo Khó, quả Phản Bội, quả Lọc Lừa... Còn biết... biết bao nhiêu là quả trái khác nữa, tùy theo tính chất của từng nhân hạt mà quả trái sẽ mọc ra.
Do đó, Mê Tín Dị Đoan không giải quyết được bất kỳ một tình huống nào cả, chỉ làm cho Thân Xác của Vong Linh càng rã rời thêm, làm cho Tâm Ý của Vong Linh thêm đậm nét đen vì chưa hề được có dịp để sám hối, để ăn năn, làm cho Tánh tình của Vong Linh càng thêm lẫy lừng, và cũng làm cho Thân Xác của Vong Linh phải chịu tiền mất tật mang vì giọng kèn tiếng quyển, vì những lời đẩy đưa, hứa hẹn của các chiêm tinh gia.
Vong Linh hãy suy gẫm thật chín chắn lời Pháp hôm nay để rồi sau đó khắc cốt ghi Tâm, tuyệt đối tiêu trừ cái Tánh Mê Tín Dị Đoan. Có như thế, ngày trở lại cõi Ta Bà, Thân Xác của Vong Linh sẽ không còn vướng vào bổn cũ soạn lại, biết cách đối phó với những cảnh huống đến với mình, và nhất là, nhờ vào việc biết sám hối ăn năn những nghiệp chướng của mình, mà Thần Thức của Vong Linh sẽ tiến dần đến việc giải thoát khỏi cảnh trầm luân.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt!
Ngày thứ 27:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Câu hỏi đặt ra cho Vong Linh hôm nay như sau:
Sau 49 ngày tu tập, khi đã hội đủ tất cả những Nhân Duyên để trở lại làm Người, Vong Linh được Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát đưa đến gặp Cha Mẹ của mình, và chờ đợi để "nhập thai". Hiện diện trong Thai Noãn, hạnh phúc làm sao trong vòng bụng ấm áp, đầy sự chở che của Mẹ, Thần Thức của Vong Linh hân hoan chờ đợi ngày khai hoa nở nhụy, chính thức chào đón cuộc Đời Mới đến với mình.
Bỗng dưng một ngày nào đó, Thần Thức của Vong Linh chợt cảm nhận một điều gì không ổn nơi tâm tư của Mẹ, hình như là Mẹ không thích sự hiện diện của đứa con của Mẹ, Mẹ có ý muốn xua đuổi nó. Thần Thức lo sợ, và nỗi lo này kéo dài không bao lâu khi một màng khí đục bao trùm lấy thai noãn, làm cho thai noãn héo dần, không còn có thể dung chứa Thần Thức nữa.
Thế là Thần Thức bắt buộc phải rời bụng Mẹ với tất cả lòng sân hận trút vào người Mẹ đã nhẫn tâm ngăn chận việc trở lại làm Người của Thần Thức của Vong Linh.
Câu hỏi được đặt ra là: Vong Linh nghĩ suy như thế nào trước hành động hủy diệt thai nhi còn trong trứng nước của người Mẹ?
Được sinh ra làm Người không phải dễ. Một thần thức phải hội đủ những Nhân Duyên để có thể thác sanh trở lại làm Người. Nhưng, vẫn chưa đủ nếu không có những thiện duyên buộc ràng giữa thần thức đó với người sanh thành thì thần thức vẫn không có cơ hội để nhìn Đời. Nói như thế để thấy rằng, khi một thần thức đã nhập thai rồi (ngay từ lúc cha mẹ giao hợp và thụ thai) thì xem như cơ hội đã đến để cho thần thức đó làm lại cuộc đời mới, để thỏa chí những gì mà thần thức đã từng tâm niệm nhưng không thành tựu được ở kiếp vừa qua. Cơ hội đến, mang theo nhiều hứa hẹn cho một cuộc đời mới, trong một thân xác mới.
Do đó, Sự hủy diệt một thai nhi còn trong trứng nước là hành động phá bỏ, hủy hoại cơ hội làm Người của một thần thức, là ngăn chận con đường "Tiến" của thần thức đó, là gây tạo một sân hận cao tột cùng cho một Linh Hồn.
Một chúng sanh hiện diện trên cõi Ta Bà đã tỏ rõ rằng chúng sanh đó đang mang rất nhiều nghiệp chướng trên người, đang quấn chặt trên người mình không biết bao nhiêu vòng nghiệp lực, một sợi dây nghiệp lực rất dài… kéo dài từ vô thỉ kiếp cho đến hiện kiếp. Sợi dây Nghiệp Lực này là một biểu tượng cho tất cả những món nợ mà chúng sanh đó đã gây tạo nên. Chúng Sanh đó lần lượt thanh toán NỢ CŨ và đồng thời cũng lại tạo thêm nhiều NỢ MỚI.
Sự có mặt của một chúng sanh trên Cõi Ta Bà có sức thu hút mãnh liệt, không khác viên đá nam châm, đến tất cả những Chủ Nợ, hiện diện đồng thời với chúng sanh đó. Đấng sanh thành của chính chúng sanh này cũng dự phần không nhỏ vào những món nợ Nghiệp Lực, chỉ có điều rằng không biết bậc làm cha mẹ này hành sử vai trò "ĐÒI NỢ" hay "TRẢ NỢ" đây?
Sự hủy diệt một thai noãn mang mầm sống, là hành động cắt đứt sợi dây tương quan nghiệp lực, giữa chúng sanh nằm trong thai noãn đó với những Chủ Nợ Nghiệp Lực mà chúng sanh đó sẽ phải đối đầu khi có cơ hội ra Đời.
Oan Trái giữa cái mầm sống trong thai noãn với người mẹ đang mang cái mầm sống đó trong bụng, tuy rằng đã xảy ra trong quá khứ, nhưng ngày giờ này oan trái đó có dịp bùng lên và chờ đợi một sự đền bù tương xứng.
Phá hủy mầm sống, xem như Người Mẹ đã danh chánh ngôn thuận từ bỏ sự hiện hữu của Oan Trái và cũng chối bỏ món nợ mà mình đã gây tạo nên. Niềm sân hận sẽ ngập tràn trong thần thức của đứa con còn trong trứng nước.
Oan trái bỗng trở nên nặng nề hơn vì xen lẫn với một nghiệp lực mới: đó chính là NGHIỆP SÁT.
Từ lúc lìa đời cho đến lúc hội đủ tất cả những nhân duyên để thác sanh, thì việc thác sanh trở lại làm Người bắt buộc phải qua một thời gian chờ đợi, chờ đợi để tìm đúng nghiệp lực nổi bật nhất đã buộc ràng. Tất cả đã sẵn sàng trong một chiều hướng rất là thuận lợi với sự giúp đỡ tận tình của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thần Thức chờ đợi để bước vào Cuộc Đời Mới với thân xác Mới, cha mẹ Mới, một tương lai Mới.
Việc phá hủy thai noãn chẳng những làm mất đi cơ hội làm Người của thần thức mà còn tiêu hủy luôn cái công lao chờ đợi của thần thức nữa (do ở việc cha mẹ chưa có thể kết hợp được với nhau vì kẻ chân trời, người góc biển, hoặc là còn nhỏ, chưa trưởng thành).
Thần Thức bước ra khỏi bụng người mẹ với một niềm sân hận cao ngút trời, đôi khi chối từ lời khuyên giải của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, do đó việc rơi vào tình trạng không siêu thoát rất dễ dàng xảy ra, mà việc không siêu thoát thì vô hạn định, vài năm, hay vài chục năm, hay vài trăm năm, thậm chí đến ngàn năm? Nào ai biết được! Tất cả đều tùy thuộc vào sự chuyển hóa của Tâm-Ý-Tánh của Thần Thức của Vong Linh mà thôi. Nhưng, nơi cõi Âm, tìm được một Thiện Tri Thức giúp cho mình gỡ bỏ được vướng mắc, buông được cục đá Sân Hận xuống, điều đó không khác chi mò kim đáy biển!!
Vong Linh hãy nhớ rằng, Thần Thức đã trải qua thời gian dài để tự chuyển hóa và tìm kiếm nơi an trụ. Nhưng đau đớn thay, khi tìm được mẹ cha rồi thì cũng chính tay cha mẹ mình hủy diệt mình!!
Một đứa bé vừa mới chào đời, có cha mẹ nào thẳng tay hủy diệt đứa bé đó không? Chắc chắn là không, vì cha mẹ cho rằng đứa bé có Sự Sống. Một thai noãn hay một thai nhi vừa mới tượng hình, chưa biết khóc, chưa biết cười thì rất sẵn sàng nhận chịu sự giết hại, chẳng qua là vì cha mẹ cho rằng nó chưa có Sự Sống nên sẽ không chùng tay khi vứt bỏ nó, hủy diệt nó.
Khi chôn một thi hài xuống lòng đất, mọi người rất dễ quên rằng: khi thi hài đó còn sự sống, còn cử động, đã có một thần thức từng trụ trong thân xác đó. Ngày giờ này, một thai noãn là kết quả của sự thụ thai thì cũng sẽ có một thần thức đến nhập thai và an trụ trong thai noãn đó, chờ đợi ngày thai noãn lớn dần, tượng hình và ra đời.
Thần thức đó sẽ là chủ của cái thân xác đứa bé được sanh ra đời, sống, hoạt động trong suốt quãng đời của chúng sanh (đứa bé) đó cho đến ngày thân xác hoại, thần thức lìa thân xác và bước vào một thân xác mới.
Bất kỳ một chúng sanh thuộc về một dân tộc nào, một chủng tộc nào cũng đều phải trải qua chu kỳ Sanh Tử như thế. Do đó, không ai có quyền ngăn cản sự ra đời của một chúng sanh. Nếu mình cắt đứt mạng sống của một chúng sanh còn phôi thai, liệu rằng mình có thoát được chăng cái tầm ảnh hưởng của Nhân và Quả, một mai khi mình ở vào vị trí của một thai noãn hay một thai nhi vừa mới tượng hình hay không? Và điều này Vong Linh sẽ phải trải nghiệm trong tương lai khi trở lại cuộc sống làm Người.
Hỡi Vong Linh,
Khi còn hiện diện trên Dương Thế, Thân Xác của Vong Linh đã không ngần ngại trong việc phá hủy thai noãn hay thai nhi, thậm chí còn hô hào hay cổ võ cho những nhóm người, những tổ chức chuyên phá thai.
Cái điều ghê tởm nhất của con người là việc biện minh cho rằng thai nhi rất bổ dưỡng, có thể giúp cho con người nâng cao khả năng tình dục và sống trường thọ, do đó mà có biết bao nhiêu thai nhi được rút ra khỏi lòng mẹ để đem đi pha chế thành thuốc đại bổ cho những kẻ giàu tiền lắm bạc, nhưng đầu óc thì vô cùng bệnh hoạn! Điều này đã làm gia tăng lòng sân hận của Thần Thức của thai nhi rất nhiều, khiến cho oan trái cứ chất chồng, khó mà vơi đi được.
Chưa hết, xác thai nhi "móc ra" bị vứt bỏ bừa bãi, có khi trong đống rác, có khi liệng bừa trên đất, mặc cho kiến bu ruồi đậu đến không còn hình dạng nữa. Người mẹ đã xem thai nhi như một ung nhọt trên cơ thể cần phải "lóc" cho thật sạch để bỏ đi, vì vậy đã không ngần ngại nhúng tay vào Nghiệp Sát.
Thử hỏi rằng, trong giây phút người mẹ cùng người cha thỏa mãn thú tánh của mình, cha mẹ có nghĩ đến cái hậu quả của việc mình vui chơi hay không? Do đó, đừng để Dục Vọng của mình chỉ huy mình, sai khiến mình; đến khi gặp điều trắc trở, gặp nỗi đau thương, chừng đó nỗi lòng biết tỏ cùng ai? Dục Lạc thường đem đến điều khó khăn nhiều hơn là điều tốt đẹp.
Tay mình đã nhúng vào việc sát hại, đã làm điều sái quấy, thì không thể nào dùng bàn tay vấy máu đó để cầu xin một đặc ân cho được!!
Sửa Tánh là một điều tối cần thiết phải làm vì nếu không sửa Tánh, thích sống buông lung, không kỷ cương, không gò cương ngựa, không tạo cho mình một kỷ luật tự giác thì những việc làm bất chánh, thiếu suy nghĩ, không phù hợp với Đạo Đức, sẽ rất dễ dàng được hành xử một cách không đắn đo.
Đừng hành động theo BẢN NĂNG mà phải hành động theo TRÍ HUỆ. Bản năng lúc nào cũng đi kèm với chữ Dục, vì vậy mà dễ bước vào những sai lầm.
Vong Linh hãy tư duy thật kỹ lời Pháp này, cố gắng trau giồi những Tánh Tốt, quyết tâm tiêu diệt những Tánh Xấu. Hãy đem hết lòng chân thành ăn năn sám hối nếu đã từng lỡ nhúng tay vào việc phá hủy thai nhi trong thời gian còn sự sống trên Dương Thế. Điều này tác động rất mạnh mẽ đến việc trở lại làm Người của Vong Linh trong tương lai.
Ngày thứ 28:
Hôm nay, Vong Linh sẽ được trình bày để cho biết cái vai trò vô cùng quan trọng của một Thần Thức trong thân xác Người.
Vong Linh biết rằng, cơ thể con người được tạo thành bởi một bộ óc, một trái tim cùng với Ngũ Tạng để chuyển động, để vận hành, để suy tư. Bên cạnh đó, hỗ trợ cho những hoạt động của thân xác chính là những cái Thức. Thiếu sự hiện diện của các Thức, thân xác sẽ hoạt động rất là máy móc, một cách hững hờ và vô cảm.
Chính cái Thần Thức trong Thân Xác Người mới đảm nhận trọng trách điều khiển những cái Thức, do đó việc huấn luyện Thần Thức là một điều tuyệt nhiên phải làm. Thức có rạng ngời thì Trí Huệ mới phát sáng được, mới có thể đề cập đến việc thăng hoa của Thần Thức.
Thân Xác đã cưu mang, ôm ấp cái Thần Thức, nó chẳng khác nào đứa con của mình vậy!! Đứa con trong bụng Mẹ, sau 9 tháng 10 ngày rời lòng Mẹ để bước vào Đời; còn đứa con Thần Thức thì chẳng hề xa rời Thân Xác Cha hay Mẹ cho đến ngày Mẹ Cha tàn hơi kiệt lực, xác thân không còn động đậy nữa, đứa con này mới bước ra khỏi thân xác Mẹ hay Cha và thực sự vẫy tay chào vĩnh biệt.
Đứa con Thần Thức luôn ở cạnh bên Thân Xác Mẹ hay Thân Xác Cha suốt cả cuộc đời của Cha hoặc Mẹ của Thần Thức. Nếu không được chỉnh sửa, dạy dỗ, huấn luyện thì đứa con này làm sao biết được thế nào là vâng lời? Thế nào là ngoan ngoãn? Thế nào là dễ dạy? Bên cạnh đó, điều đáng nói nhất là đứa con Thần Thức này đã nắm trong tay toàn bộ những Nghiệp Lực của Thân Xác Mẹ hay Thân Xác Cha, nó sẽ mặc tình mà tung hoành, mà quậy phá, khiến cho Thân Xác của Mẹ hay Cha khó lòng có được một ngày An Lành, yên ổn.
Việc tu tập hằng ngày, hành trì Sám Hối - Trì Chú - Niệm Phật giúp cho Đấng Sanh Thành Cha hoặc Mẹ của Thân Xác của Thần Thức tỏ dạ ăn năn hối lỗi đối với chính đứa con của mình. Ngày xưa, Thần Thức của Cha hoặc Mẹ đã gây tạo lỗi lầm đối với Thần Thức của đứa con hiện kiếp của mình, ngày giờ này việc ÂN OÁN là điều không tránh khỏi; có điều rằng, nếu Cha hoặc Mẹ thật lòng hối cải, ăn năn thì may ra việc trả nợ trả oán này sẽ ít gay gắt hơn, sẽ nhẹ nhàng hơn và khó lòng dẫn đến một ân oán khác.
Từ những kiếp Quá Khứ, đứa con Thần Thức này cũng gây tạo vô số là Nghiệp Chướng của riêng nó, cũng đã gây thù chuốc oán với biết bao nhiêu người, ở bất cứ nơi chốn nào mà nó đã hiện diện. Nếu ở hiện kiếp, Thân Xác của Thần Thức biết chân thành tỏ dạ ăn năn, hằng ngày thiết tha hành trì Sám Hối - Trì Chú - Niệm Phật, cũng giúp cho Thần Thức của mình tiêu trừ được phần nào nghiệp chướng đã gây tạo, đem công đức tu tập hồi hướng lại cho các Oan Gia Trái Chủ và làm cho cái Tâm Thức của đứa con Thần Thức của mình cũng bớt đi phần đen tối.
Khi an trụ trong một thân xác mới rồi, A Lại Da Thức sắp xếp để cho các Nghiệp Lực theo thứ tự lớp lang mà hành động, và kẻ nắm trọn các Nghiệp Lực cũng như chỉ huy các Nghiệp Lực chính là Thần Thức của thân xác mới.
Nếu Thân Xác dốc lòng chỉnh sửa, giùi mài những Tánh Xấu, những thói tật hư đốn, sẽ giúp ích rất nhiều cho đứa con Thần Thức của mình để không còn tiếp tục làm những điều tai hại, xấu xa, nhiều dã tâm, làm điều ác độc đối với người chung quanh.
Xem như Thân Xác đã dạy dỗ, huấn luyện, ngăn chận những hành động ngang bướng, cứng đầu, khó dạy của đứa con Thần Thức của mình. Đứa con này chẳng những nắm trọn mà còn chỉ huy toàn bộ Nghiệp Lực của Thân Xác ở hiện kiếp, nếu không khéo léo dạy dỗ, không tỏ ra cứng rắn lèo lái, xoay chiều, uốn nắn và sửa đổi, Thân Xác sẽ không tránh khỏi muôn điều sầu thảm đến với mình.
Một sự tu tập chân chính với tấc dạ chân thành sửa Tánh của Thân Xác sẽ khiến cho toàn thể các Thức ngời sáng lên, bật sáng được ngọn đèn Trí Huệ của Thần Thức. Điều đó đã nói lên được sự trưởng thành của Thần Thức, một sự chững chạc cao tột, một sự tự tại ung dung trong cái MUỐN của Thần Thức, dù đi bất cứ nơi đâu, dừng chân ở bất cứ nơi nào, mãi mãi và vĩnh viễn, đứa con này không bao giờ quên đi lời dạy dỗ của Thân Xác Mẹ hoặc Cha.
Sự dốc tâm tu tập, sự chân thành sám hối ăn năn các Nghiệp Tội đã gây tạo nên, đã giúp cho Thân Xác chuyển hóa được cái tính chất ngỗ nghịch, cứng cỏi của đứa con Thần Thức, cương quyết kình chống, đánh phá, thậm chí đòi mạng cái thân xác đang cưu mang mình.
Đứa con giờ đây trở nên dịu dàng, nhân ái, nhẹ tay buông xuống những Nghiệp Lực để "đổi Thù thành Bạn", khiến cho Sân Hận không còn nữa; rồi một mai khi bước ra khỏi thân xác, với sự rực rỡ của Trí Huệ, đứa con Thần Thức này sẽ quay lại mỉm cười với thân xác bất động mà nói lên 2 tiếng CÁM ƠN.
Hỡi Vong Linh,
Ngày giờ này Vong Linh đã không còn thân xác nữa, chỉ còn thuần có cái Thần Thức mà thôi. Các Đấng Từ Bi đã ban cho Vong Linh thời gian đặc ân 49 ngày để tu tập, để chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh của mình. Vong Linh đã hiểu rõ rằng, sự dốc tâm tu tập, sự chân thành sửa đổi những thói hư tật xấu, sự cố gắng vun bồi những tánh tốt sẽ làm cho Tâm-Ý sáng ngời lên, Thần Thức sẽ có được Trí Huệ. Khi đó, việc buông bỏ xuống những tảng đá Nghiệp Lực sẽ được thực hiện một cách dễ dàng hơn, Thần Thức sẽ nhẹ nhàng cất bước để tìm nơi thác sanh.
Còn một điều quan trọng mà Vong Linh phải luôn ghi nhớ là: tất cả những cố gắng của Vong Linh trong việc tu tập, trong việc tích cực chỉnh sửa những tánh xấu và vun bồi những tánh tốt, chắc chắn sẽ giúp cho Vong Linh trở thành đứa con Thần Thức ngoan ngoãn, dịu dàng, nhân ái trong một Thân Xác Mới.
Vong Linh hãy khắc cốt ghi tâm lời Pháp hôm nay để sửa soạn cho mình một Thân Xác Mới luôn ấp ủ một Thần Thức ngoan hiền, nhân hậu, giúp cho cuộc đời mới của mình bớt đi phần nào chông gai, trắc trở. Chính đứa con đã được huấn luyện kỹ càng đó sẽ giúp cho Thân Xác Mới được "Sống" những ngày nhẹ nhàng, dễ thở trong niềm An Lạc.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
TUẦN THẤT THỨ NĂM:
Ngày thứ 29:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Ngày Vong Linh còn tại thế, Vong Linh đã có từng bao giờ trải nghiệm qua những phút giây An Lạc trong cuộc đời của mình hay không?
Miếng ăn, miếng uống, phương kế sinh nhai, tiền bạc, quyền uy đã gặm nhấm gần hết cuộc đời của một kiếp người. Cứ mỗi một ngày qua là có bao nhiêu sự việc, sự kiện vây quanh, bao nhiêu câu hỏi phải giải đáp, bao nhiêu khó khăn phải đối đầu, bao nhiêu trắc trở phải vượt qua?
Có thể:
Vong Linh là một kẻ lang thang vất vưởng, không nơi nương tựa, sống nhờ vào lòng hảo tâm của người qua đường, ăn cơm thừa canh cặn, ngủ bờ ngủ bụi trong cảnh màn trời chiếu đất.
Vong Linh là một người nghèo khổ, bắt buộc phải chạy lo cơm ngày 2 bữa, có khi bữa đói bữa no, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, gia đình túng bấn, con đau, vợ ốm, chồng thì thất nghiệp; một mái gia đình tơi tả, hoàn toàn không còn sinh khí.
Vong Linh là một người khá giả hơn, đủ ăn, đủ mặc, nhưng gặp cảnh con đau, con tật bệnh, cha mẹ phải thường xuyên chạy chữa, chăm sóc, dưỡng nuôi vô cùng là cực nhọc.
Vong Linh là một người dư ăn, dư để, có chút ít tài sản, nhưng luôn gặp cảnh huynh đệ tương tàn, anh chị em lợi dụng, luôn đòi hỏi sự giúp đỡ về tài chánh nhưng không bao giờ hoàn trả.
Vong Linh là một người học cao hiểu rộng, có nhiều sáng kiến, nhưng lòng dạ hẹp hòi, ích kỹ, không bao giờ muốn chia sẻ kiến thức, sự hiểu biết của mình cho bất cứ ai.
Vong Linh là một người rất háo danh, thích người khác ca ngợi mình, khen thưởng mình, tung hô mình, lúc nào cũng sống trong ảo tưởng, trong những lời giả dối.
Vong Linh là một người thích quyền uy, thích ban phát lịnh cho kẻ khác, do đó chẳng bao giờ từ nan bất cứ thủ đoạn nào để có thể thâu tóm quyền lực.
Vong Linh là một người tham tiền, thích tiền, yêu tiền, tiền càng nhiều càng tốt, không cần biết tiền đó từ đâu tới, miễn sao đầy túi là được, cho nên đã không ngại ngùng nhúng tay vào những hành vi bất lương, phạm pháp.
Vong Linh là một người tham bất động sản, thích thú nhìn ngắm hàng loạt dãy nhà, hoặc những công trình kiến trúc lớn nhỏ, để rồi tự vui thích, tự thỏa mãn cái tự ái cao tột của mình. Trong quá trình sở hữu hàng loạt những bất động sản, đã không tránh khỏi những lắc léo, những lươn lẹo, những mưu mô lừa đảo đằng sau cái hào nhoáng của những ngôi biệt thự.
Vong Linh là kẻ thích chiêm ngưỡng sắc đẹp, chắc chắn rằng sẽ hành xử như những tay thợ săn để săn lùng những con mồi diễm lệ. Đã mang trong người dòng máu dâm ô thì chắc chắn là sẽ khó mà từ nan trước mọi thủ đoạn để thu phục con mồi. Niềm đau, nỗi oán hận, sự xót xa, sự uất nghẹn từ ở các con mồi, đã kết thành oan trái kéo dài không biết đến đâu là chấm dứt.
Vong Linh là kẻ thích sống ngoài vòng pháp luật, thích sử dụng luật giang hồ, thích đùa giỡn với súng, với dao; những ai không hợp ý với mình, một cái vung tay, một mạng người ngưng hơi thở.
Từ nãy giờ Vong Linh đã được vạch rõ cho thấy từng hoàn cảnh, từng trường hợp của đủ hạng người sống trong cõi Ta Bà. Có thể rằng, trong suốt cuộc đời đã qua, Vong Linh bận bịu với cuộc sống của riêng mình nên chưa từng có dịp để tìm hiểu về cuộc sống của những người khác. Ngày giờ này, Vong Linh có cơ hội để nhìn lại cuộc đời đã qua trong một bức tranh tổng thể, Vong Linh có nhận ra được rằng mình đã bỏ phí rất...rất nhiều thời giờ để phụng sự cho Thân Xác hay không?
Vong Linh đã vắt hết tim óc, đem hết tinh hoa của mình chỉ để điểm tô cho Thân Xác mà thôi.
Vong Linh trả Nghiệp cũng chỉ vì Thân Xác, Vong Linh tạo thêm Nghiệp cũng chính là vì Thân xác.
Vong Linh tưởng rằng mình làm cho Thân Xác rực rỡ lên, đẹp đẻ lên, sống trong nệm ấm chăn êm, trong nhà cao cửa rộng, đó mới đúng là chân lý của cuộc sống, là cứu cánh của cuộc đời.
Thật ra đó mới chính là thỏa mãn Tự Ái của một con người!
Trong cuộc sống "Hợp Quần", con người có khuynh hướng hay dòm ngó chung quanh mình. Người ta có ăn mà mình thiếu ăn, người ta dư mặc mà mình rách rưới, bảo sao lòng không e thẹn? Lòng dặn lòng, phải ráng sức để không thua sút, tối thiểu là đừng thua người kế bên mình. Mạnh ai nấy vươn lên, vươn lên bằng mọi cách, không đắn đo, không suy nghĩ, miễn sao đạt được mục đích là tốt rồi. Nếu có phải chơi xấu nhau, thêm vào chút ít mánh khóe hay lươn lẹo cũng chả sao!
Tánh xấu càng nhiều, tuyệt chiêu tung ra càng ngoạn mục. Tuyệt chiêu tung ra để làm gì? Để đối phó với những sự việc, những sự kiện, những khó khăn, những trắc trở vây quanh các vấn đề cơm áo gạo tiền, tiền tài danh vọng, tài sản thế lực, quyền uy, sắc đẹp...Bên cạnh đó, Nghiệp Lực không ngừng triển khai, Vòng Nghiệp Lực cũng đóng chặt liên hồi, con người thì múa may quay cuồng, nhìn bức tranh tổng thể của cõi Ta Bà thật không khác gì một mớ bồng bông!
Rồi thì chân run, gối mỏi, tay chân không còn cất nhắc nổi nữa, có kẻ phải ngồi trên xe lăn, có người đi đứng phải có sự phụ giúp, có kẻ phải nằm liệt trên giường, có người mang bệnh trầm kha, có kẻ nửa mê nửa tỉnh, đầu óc cứ toàn là ảo tưởng…..Thân Xác cứ lụn dần như ngọn đèn dầu sắp tắt, nằm đó mà chờ đợi...chờ đợi ngày hồn lìa khỏi xác!!
Vong Linh có thấy chăng, chính mình đã làm uổng phí cuộc đời mình.
Chỉ một việc đối đầu với những Nghiệp Lực do chính mình gây tạo ra trong quá khứ cũng đủ làm cho mình thất điên bát đảo rồi. Tại sao mình không cố gắng tìm cách để làm cho giảm bớt đi sức công phá của những Nghiệp Lực này? Ngày xưa chính tay mình đã tạo ra oan trái, tại sao ngày giờ này mình lại hững hờ không muốn tiếp nhận nó? Liệu rằng nó có bỏ qua cho mình hay không? Chắc chắn là KHÔNG!
Rõ ràng là lỗi lầm xưa không trả, lại cố tình tạo thêm Nghiệp mới ngày hôm nay, bảo sao mà Nghiệp cứ chất chồng, kiếp luân hồi cứ mãi trôi lăn!
Một cuộc đời kéo dài không quá 100 năm, thử hỏi, gần hết cuộc đời chỉ để dành lo cho Thân Xác, Linh Hồn thì rỗng tuếch, chưa từng bao giờ được cho "ĂN", do đó tìm đâu ra cái hương vị ngọt ngào của cái cảm giác AN LẠC?
Cả cuộc đời chưa từng biết ăn năn sám hối, trong khi Linh Hồn thì phủ một màu đen do oan trái, do nghiệp chướng chất chồng, do Tâm quái đản, do Ý xấu xa, do trùng trùng điệp điệp Tật xấu, Thói hư.
Cái màu tối đen đó đã che lấp mờ đi cái rực sáng của Linh Hồn, khiến cho không còn hé lộ chút nào cái cảm giác An Lạc tiềm ẩn bên trong.
Chính cái cảm giác An Lạc này mới giúp cho Thân Xác của Vong Linh lánh xa lần những tư tưởng sai lầm, những hành động bất chánh, những lời nói bất thiện, những cử chỉ khiếm nhã, và cũng giúp cho Thân Xác không còn quá lệ thuộc vào vật chất xa hoa, dễ dàng đưa đến hết nông nỗi này đến nông nỗi khác.
Niềm An Lạc đưa Thân Xác của Vong Linh trở về với cái Tâm Đồng Tử, tức là Tâm của một trẻ thơ, không biết buồn - vui - giận - hờn, không biết nói lời trách móc, không biết nói lời ngược xuôi với nhiều hậu ý hay thâm ý, cũng không có ý nghĩ hại người, chém giết hay cướp đoạt hoặc làm những điều quấy trá.
Điều đáng ghi nhớ là: Muốn có Tâm Đồng Tử, bắt buộc phải sửa tánh.
Sửa tánh xấu để có được nhiều tánh tốt. Sửa tánh xấu để không còn làm những hành động bốc đồng, nhiều quấy trá. Sửa tánh xấu để không còn có dịp tạo thêm nhiều Nghiệp mới nữa.
Không còn tánh xấu, sẽ ít bị du vào những lụy phiền, Tâm trở nên An Ổn, lòng cảm thấy lâng lâng phơ phới, không còn bị dằn vật bởi Tự Ái bốc đồng nổi dậy.
Vong Linh phải nhớ rằng, Chúng Sanh của cõi Ta Bà tánh khí quá nóng nảy, lòng luôn chất chứa lụy phiền, sân hận thì ngút trời, mỗi chút mỗi giận, mỗi hờn, dễ dàng vung tay bắn súng, phóng dao, xem sanh mạng của nhau như cỏ dại bên đường, sẵn sàng nhổ bỏ, chả trách sao mà Nghiệp Sát cứ triền miên từ đời này nối tiếp đời sau.
Tánh nết quá dữ dằn, tác tệ, gây tổn mạng cho kẻ khác. Nhân không Lành đã gieo trồng rồi thì Quả Đắng Cay không thể nào tránh được. Hại người thì cũng có lúc bị người hại lại, cái vòng lẩn quẩn cứ xoay chiều, tưởng chừng như không bao giờ chấm dứt.
Ngày hôm nay Vong Linh đã hiểu rõ, tại sao phải nên hướng Tâm của mình đến sự An Lạc?
Nếu Vong Linh mong mỏi một cuộc đời mới ít phiền muộn, nhiều thư thả, không đắm chìm trong ganh đua, trong ham muốn, trong tranh giành, sống một cuộc đời hoàn toàn có ý nghĩa, biết người biết ta, biết nương tựa lẫn nhau, biết dìu dắt cho nhau, biết chia sẻ cùng nhau, và nhất là...một sự an bình ở cuối cuộc đời, ra đi trong sáng suốt, trong sự lựa chọn hướng đi của mình, để vĩnh viễn không còn trôi lăn trong kiếp luân hồi nữa….tất cả những điều mong mỏi đó đã được Chư Phật và Bồ Tát chuẩn bị cho Vong Linh.
Chỉ cần Vong Linh dốc lòng dốc sức thành tâm tu tập để chỉnh sửa Tâm - Ý - Tánh trong suốt 49 ngày, để khi trở lại cõi Ta Bà, những dấu ấn của việc tu tập ngày hôm nay sẽ hằn ghi trong Tâm Thức, giúp cho Thân Xác Mới của Vong Linh có cơ hội gặp được Thiện Tri Thức dẫn dắt, chỉ bảo để tu tập tiến lần đến sự Thăng Hoa.
Vong Linh hãy tư duy thật sâu sắc lời Pháp hôm nay và cố gắng tu tập để đạt được kết quả tốt đẹp trong cuộc đời kế tiếp.
Bài Pháp hôm nay chấm dứt nơi đây.
Ngày thứ 30:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Nhìn lại cuộc đời mới vừa qua, trong sự giao tế, tiếp xúc với những người đồng loại chung quanh, Vong Linh có thật sự mãn nguyện với cách cư xử, cách đáp trả của những người mình tiếp cận hay không?
Nếu Vong Linh khẳng định là KHÔNG thì Vong Linh hãy chịu khó nhìn lại bản thân mình, hãy thẩm định lại cái thái độ, cách hành xử, sự đối đãi của mình như thế nào đối với người mình giao tế.
Bài Pháp hôm nay chính là nói về cái phép Đối và Đãi. Sự đối đãi với nhau trong cuộc sống hằng ngày tưởng chừng như không có gì là khó khăn cả, nhưng, đó lại là rào cản, là nguyên nhân đưa đến sự bất hòa, sự thiếu cảm thông, sự sân hận, thậm chí đánh mất đi sự thân thiện, tình bằng hữu giữa đôi bên.
Vong Linh hãy thử nghĩ suy đi:
Bạn mời mình ăn uống 10 lần, mình chẳng có lần nào mời lại, dù là biếu xén cho bạn một vật gì thật là nhỏ bé, không đáng kể.
Bạn thường xuyên giúp đỡ tài chánh cho mình qua cơn ngặt nghèo, túng bấn, thế mà khi bạn cần đến sự giúp đỡ của mình thì mình lại tìm cách lảng tránh.
Bạn gồng gánh những khó khăn trắc trở đến với mình, nhưng khi bạn gặp điều phiền muộn, mình lại cứ lờ đi, không một lời an ủi, khuyên lơn.
Bạn giúp sức, hỗ trợ cho mình đạt được địa vị mà mình mong muốn, thế nhưng mình không có lấy một lời cảm ơn tỏ dạ tri ân, trái lại còn có ý chứng tỏ với mọi người rằng, đó là do công sức của mình làm nên.
Điều cay đắng nhất là mình đã vội phủ nhận tất cả những sự nhiệt thành giúp đỡ của bạn mà quay trở lại chiếm đoạt những gì thân thương, quý giá nhất của bạn.
Càng đớn đau hơn nữa, đó chính là cái cảnh "cứu vật thì vật trả ơn, còn cứu nhơn thì nhơn trả oán", chính mình lại là người làm cho bạn thân bại danh liệt, làm cho bạn phải nhà tan cửa nát, làm cho bạn phải sa vào vòng lao lý, cảnh ngục tù.
Vong Linh đừng vội nghĩ rằng, những điều vừa kể ra trên đây chỉ là thỉnh thoảng mới gặp, trái lại, gần như xảy ra hằng ngày trong cuộc đời của Chúng Sanh của cõi Ta Bà.
Tình huống này xảy ra, thật sự bắt nguồn từ ở nhiều tánh xấu: tánh ganh tỵ, tánh ghen ghét, tánh phách lối, tánh hời hợt, thiếu để tâm, cộng thêm một tự ái cao vòi vọi. Dù rằng được đối xử tốt, nhưng vẫn hững hờ, tỏ ra không tha thiết, không muốn nhận ơn. Có khi lại quá vô tâm, vô tình, cho nên không có sự tương tác đúng mức, đúng nghĩa giữa người làm ơn và người nhận ơn.
Biết ơn là một hành động diễn tả hay bộc lộ sự tha thiết nhớ đến những gì mà người khác đã làm cho mình, đã giúp đỡ mình hay ban bố cho mình.
Nó bao gồm: một điều tốt đẹp, một lời khuyên hữu ích, một sự dễ dàng mà kẻ khác dành cho mình, một hành động hay một cử chỉ của một người nào đó đã làm cho mình, hoặc là một món vật nào mà người khác đã ban tặng cho mình.
Sự biết ơn nói lên tư cách của một người khi nhận chịu sự giúp đỡ của kẻ khác đối với mình.
Khi một người làm điều tốt đẹp cho mình, giúp mình thoát khỏi cơn nguy khốn, ban cho mình một cái gì mà mình không có hoặc đang rất cần, giúp cho mình giải quyết tất cả những khó khăn mà mình gặp phải hoặc không biết cách đối phó, dẫu là một người không biết tu tập, cũng vẫn phải lấy sự ĐỐI ĐÃI làm đầu.
Người ta Đối tốt với mình thì mình phải Đãi trở lại bằng những điều tốt đẹp. Như vậy mới có sự tương xứng!
Nếu có sự đối tốt mà đãi thì quá xấu, tức là không có sự tương xứng, việc gì sẽ xảy ra?
Chắc chắn là sẽ dẫn đến việc mích lòng lẫn nhau, chạm đến tự ái rồi gây ra nghiệp lực.
Việc đối đãi một khi không tương xứng sẽ dễ dàng đưa đến sân hận. Dù cho người đối tốt bảo rằng: Không để ý đến sự đáp lại của người kia, nhưng một lần, hai lần, rồi ba lần,… sẽ khiến cho lòng tốt trở thành ra không còn tốt nữa, tự ái của người đối tốt bị va chạm, họ cảm thấy rằng việc mình làm chỉ nhận được một sự thờ ơ.
Tự ái là đầu mối của sân hận; có thể rằng sân hận trong trường hợp này không cao lắm, không bộc lộ, nhưng nó tiềm tàng và khởi đầu cho những hành động không hay sau này.
Người nhận sự đối tốt mà có những cử chỉ hững hờ, có những lời bạc bẽo thì sẽ là đầu mối khiến cho sự tốt đẹp trở thành ra không còn tốt đẹp nữa. Người nhận sự đối tốt đó cũng mang danh là kẻ vô ơn, bội bạc.
Nên nhớ rằng: những cử chỉ, những hành động dù rằng rất nhỏ nhặt nhưng nó tạo nên một vết hằn rất lớn. Một lời bạc bẽo, một cử chỉ thiếu hiểu biết, một hành động không tốt đẹp sẽ tạo nên cái mầm cho những sân hận sẽ xảy ra trong tương lai.
Một thí dụ rất là đơn giản để cho Vong Linh chiêm nghiệm:
Trong việc mua sắm, ai cũng muốn được bớt giá, muốn được xem như là một khách hàng đặc biệt, đòi hỏi người bán phải chiều chuộng, cho thêm cái này hay giảm giá cái kia. Tuy nhiên, thái độ của người mua lại không phù hợp với ý muốn của họ. Họ tỏ ra gắt gỏng, lên giọng, thay vì nài nỉ, lại nói lời trịch thượng, tỏ thái độ của kẻ lắm bạc tiền, sang cả.
Kết quả là người mua chẳng nhận được một đặc ân nào cả; cử chỉ và lời nói của người mua đã khiến cho tự ái của người bán bị va chạm. Sự việc này dẫn đến sự đôi co, cãi vã giữa đôi bên. Cuối cùng rồi, cả hai bên đều chịu thiệt thòi: người bán cũng không bán được món hàng, người mua cũng không mua được món đồ mình đã chọn lựa.
Sân hận đã phát sinh! Trên phương diện Đời, cả người mua lẫn người bán đều không muốn giao dịch với nhau. Trên phương diện Tâm Linh, Vòng Nghiệp Lực phát sinh từ sự sân hận đó đã hoàn toàn đóng lại. Tất cả cũng đều do từ ở những tánh quá xấu mà ra!!
Cần phải ghi nhớ một điều rằng, trong cuộc sống hằng ngày, một Chúng Sanh không thể nào sống tự túc được mà phải nương tựa vào người này hay người khác. Đã là nương tựa thì đòi hỏi một sự giúp đỡ để chống đỡ cho mình đứng vững; mình chống đỡ cho người này thì kẻ khác sẽ chống đỡ cho mình.
Đời sống hằng ngày có đầy dẫy sự chung đụng, cần rất nhiều sự nương tựa lẫn nhau và sự đối đãi sao cho tương xứng là điều không thể lơ là được.
Đừng bao giờ xem thường những điều nhỏ nhặt. Chính những điều nhỏ nhặt mới đem lại sự không hay và dẫn tới một tình trạng trầm trọng bất ngờ!
Hằng ngày có rất nhiều việc xảy ra cho Chúng Sanh mà nguyên nhân không phải là điều lớn lao, chính lại là chuyện nhỏ li ti. Những việc nho nhỏ, vụn vặt, xem ra không đáng, nhưng nếu cứ được lặp đi lặp lại nhiều lần, qua nhiều ngày tháng, sẽ lại là nguyên nhân lớn, là đầu mối phát sinh sân hận, khơi mào cho nghiệp lực xảy ra.
Do đó bắt buộc phải sửa Tánh, có sửa tánh thì mọi giao dịch trong phạm vi của phép Đối và Đãi mới trơn tru, thông suốt.
Vong Linh phải nhớ điều này: đừng bao giờ bỏ qua bất cứ một điều nhỏ nhặt nào cả vì chính những điều nhỏ nhặt khi thu góp lại sẽ tạo thành ngòi nổ, do đó mà cái tánh thiếu sự tỉ mỉ rất là quan trọng, và nó càng quan trọng hơn nữa trong phép Đối và Đãi.
Thiếu sự tỉ mỉ, phép Đối và Đãi sẽ trở nên không tương xứng.
Hỡi Vong Linh,
Bây giờ thì Vong Linh đã thấu hiểu tại sao trong sự giao tế hằng ngày hay xảy ra những trục trặc, những trắc trở, đôi khi đưa đến những tình huống vô cùng là nghiêm trọng. Đó chẳng qua là vì mọi người đã quá vô tâm, quá thờ ơ trong cách đối xử với nhau. Có mấy ai chịu khó để chút tâm tư mình vào lời nói, vào cách đối xử với người chung quanh? Tự ái của ai cũng đều cao vòi vọi, ít chịu nhún nhường, do đó, Đối xấu thì nhận được Đãi xấu, đó là việc đương nhiên!
Vong Linh muốn rằng khi trở lại cõi Ta Bà trong Thân Xác Mới, mọi việc sẽ được cải thiện tốt đẹp hơn, hoàn hảo hơn. Muốn như thế, giản dị chỉ có một điều là phải tích cực sửa Tánh, cố gắng triệt tiêu toàn bộ những tánh xấu, những thói hư, quyết trau giồi Tâm cho Lành, Ý cho trong sáng, và khắc cốt ghi tâm thật nhiều Tánh Tốt.
49 ngày đặc ân đủ để cho Vong Linh làm được việc đó. Chỉ cần một sự quyết tâm chỉnh sửa, chân thành sửa chữa thì mọi việc sẽ hoàn toàn tốt đẹp trong tương lai.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 31:
Hôm nay Vong Linh sẽ được vạch cho thấy rõ những sai lầm đôi khi rất là tai hại trong việc CHẤP của mình qua những ví dụ như sau:
1. Chấp trong lời nói:
-
Giữa bàn tiệc đông người, rượu ngà ngà say, rượu vào thì lời ra, mạnh ai nấy nói, vui chơi thỏa thích, nhưng hỡi ôi! Một cảnh tượng thương tâm xảy ra ngay ngày hôm sau cho một cặp đang yêu nhau. Chỉ vì chấp vào câu nói bâng quơ của một người khác mà cặp trai gái này đã cãi nhau kịch liệt về sự thủy chung của nhau trong tình yêu, đưa đến một đoạn kết vô cùng buồn thảm là người con trai vì quá ghen tuông nên đã mạnh tay làm thiệt mạng người mình yêu.
-
Trong một cuộc cãi vã giữa cha và mẹ, nhiều ngôn từ không tốt đẹp được thốt ra từ ở một tự ái bị va chạm. Dần dà, sau nhiều lần gây gổ, tranh luận, những lời khiếm nhã khắc ghi vào tâm tư của cả đôi bên, đã như quả bom nổ bùng, đưa đến việc ly hôn, khiến cho gia đình tan nát, con cái mất đi phương hướng trong việc dạy dỗ và giáo dục. Tất cả cũng chỉ vì cả đôi bên đều quá "Chấp" vào lời nói của nhau, khiến cho khó có sự cảm thông và tha thứ cho nhau.
-
Chấp vào một lời nói khích của bạn xấu, đứa con đã không ngại ngùng gom hết tất cả những gì quý giá trong nhà bán đi để lao đầu vào việc ăn chơi thỏa thích.
-
Bạn bè, những người chung quanh xúm nhau ca ngợi sắc đẹp của cô gái, và tỏ ý tiếc rằng người chồng của cô ta không xứng lứa vừa đôi với cô ta. Cái kết quả là cô ấy bỏ chồng đi theo một người đàn ông đẹp trai, hào hoa phong nhã, nhưng lại là một tên du thủ du thực, chuyên lường gạt cả tình lẫn tiền của những người đàn bà nhẹ dạ.
-
Tin vào lời nói của một người được cho là đáng tin cậy, người chủ nhà hạch sách người giúp việc về món đồ bị đánh cắp và đồng thời đánh đập khảo tra người này thật là tàn nhẫn.
-
Cho rằng vị bác sĩ học chưa tới mức nên không đủ khả năng trị bệnh cho mình, bệnh nhân quay sang tìm người chữa bệnh vừa ý, cuối cùng thì gặp nhằm lang băm, tiền mất tật mang.
-
Không nghiên cứu kỹ lưỡng, quá tin vào lời nói của bạn bè, người sinh viên cứ "nhảy" hết ngành học này đến ngành học khác, từ đại học này tiến sang đại học khác, cuối cùng thì bạn bè đã ra trường hết, còn mình thì vẫn chưa tìm được một ngành nghề thích hợp.
-
Cả tin vào sự hô hào cải tiến xã hội, tình nguyện tham gia vào đám đông để biểu tình ủng hộ, hóa ra bị mắc lừa của một tổ chức chuyên phá hoại trật tự xã hội và chống đối những chính sách của chính quyền.
-
Làm một vị lãnh tụ tối cao của một quốc gia mà cứ cả tin vào lời nói của những kẻ chuyên nịnh bợ, những kẻ xôi thịt, chỉ chực chờ đẩy dân vào con đường lầm than để trục lợi, không sớm thì muộn đất nước cũng đi vào con đường diệt vong.
-
Một thế hệ TRẺ, lành mạnh, nhiều nhiệt huyết, nhiều sức sống, nếu cứ chấp vào những điều có tính cách quá bảo thủ đến nguy hại (thí dụ như: không lấy người khác xứ, không ăn đồ khác xứ, không theo tôn giáo ngoại lai, không học tiếng nước ngoài, không giao tiếp với nước ngoài, không tiếp cận văn hóa nước ngoài..v.v…), lần lần sẽ biến đất nước trở thành một quốc gia đơn độc, lẻ loi, không có đồng minh, không có sự hỗ trợ từ bên ngoài khi đất nước lâm nguy.
2. Chấp trong hành động:
-
Một người chồng có tánh ích kỷ hẹp hòi luôn luôn ngăn cấm vợ mình giúp đỡ kẻ khác, bất cứ một khoản chi tiêu nào của người vợ cũng đều bị người chồng hạch hỏi rất gắt gao.
-
Hai bên gia đình bất hòa đã là chướng ngại lớn lao cho tình yêu của đôi trai gái.
-
Ông A và ông B là hàng xóm với nhau, có chuyện cãi vã rất là gay gắt từ ở việc chó của ông A cứ sang nhà ông B "tè cả đống" ở trước sân. Một ngày nọ, ông A trở về nhà nhìn thấy con chó của mình bị thương nơi chân, máu me đầm đìa. Ông tức tốc cầm một cây gậy, sang nhà ông B không nói nữa lời, và đập túi bụi vào con chó của ông B vì ông cho rằng ông B đã đánh con chó của ông đến bị thương tích như thế, giờ thì ông đập lại con chó của ông B để trả thù. Ông A đâu có biết rằng con chó của ông bị xe tông vào nên mới bị thương như thế.
-
Người chồng có tánh ghen tuông khiến cho vợ gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề giao tế, làm ăn buôn bán. Một sự giao thiệp với người khác phái nào của người vợ cũng đều bị chồng cho là có hành vi ám muội, lừa dối, thiếu thủy chung.
-
Một người lãnh tụ thiếu tài, thiếu đức không có khả năng thẩm định mọi sự việc trong hệ thống cai trị hành chánh của mình. Họ chấp từng lời nói, từng hành động của cộng sự viên để vạch lá tìm sâu, để đánh giá sự trung thành của thuộc hạ của mình.
- Đây là đứa con trai duy nhất trong gia đình, tạo nhiều uy tín với gia đình, với dòng họ. Đáng buồn thay, dựa vào uy tín đó, đứa con trai đã vơ vét hết sản nghiệp của gia đình lẫn của bà con dòng họ.
3. Chấp trong tình cảm:
-
Tin tưởng hoàn toàn vào tình yêu tuyệt đối của cô gái, cậu trai chuyển tất cả số tiền dành dụm từ bấy lâu nay của mình vào trương mục ngân hàng của cô gái để chuẩn bị cho ngày cưới. Kết quả là cô gái đã cao chạy xa bay, để lại mối hận lòng khó nguôi cho cậu trai này.
-
Ôm chặt trong lòng một tình thương con dạt dào sâu thẳm, người mẹ nuôi con, mong con lớn lên, cuộc đời tốt đẹp, ngày mẹ không còn đủ sức phấn đấu với cuộc đời nữa, con sẽ luôn bên cạnh mẹ để đỡ đần giúp sức. Ngờ đâu, khi con đã đủ lông đủ cánh, có thể bay nhảy được trong khoảng trời rộng bao la, con đành bỏ mặc mẹ thui thủi một mình với tuổi già sức yếu, chân run gối mỏi, không còn hơi sức để làm gì nữa cả.
-
Sau tai nạn lưu thông, ba của đứa bé đã qua đời, nhưng đứa bé vẫn ngồi đó hằng ngày bên khung cửa sổ, chờ đợi...chờ đợi người cha thân yêu trở về, mặc cho bao nhiêu lời khuyên dỗ của người mẹ, đứa bé vẫn nuôi niềm hy vọng cha sẽ trở về nhà!!
-
Người đàn bà điên loạn này đã ôm chặt trong lòng tình yêu của người chồng đã bỏ bà để ra đi với tình nhân trong một ngày mưa tuyết bão bùng.
-
Tình yêu đối với người bạn trai trong lòng cô gái này đã dâng lên cao tột, khiến cô mạnh dạn bác bỏ tất cả những lời cảnh báo của bạn bè về sự thủy chung của người bạn trai này.
- Say đắm với tình yêu đang hưởng thụ, người đàn bà không thể nào ngờ được một sự lọc lừa, âm mưu chiếm đoạt tiền tài của người đàn ông đang ôm ấp bà.
4. Chấp trong mê tín dị đoan:
- Cầm bản tử vi trên tay với lời tiên đoán cực kỳ tốt đẹp về một cuộc đời bình an, không sóng gió, tiền của dồi dào, phong lưu và thoải mái, người con trai đã 30 tuổi này vẫn còn đang ăn bám vào cha mẹ, đang còn chi xài tiền của cha mẹ; cuộc đời phong lưu, giàu tiền lắm bạc đâu không thấy, chỉ thấy một kẻ ăn không ngồi rồi, vô công rỗi nghề, ngày qua ngày, chờ dài cả cổ cái vận may đến với mình như lời đã ghi trong bản tử vi.
- Thời buổi dịch bệnh đang lan tràn, mọi người bắt buộc phải tuân thủ những nguyên tắc vệ sinh cần thiết để phòng tránh sự lây lan. Thế mà có một số rất khá đông dân chúng đã không tuân hành lệnh của cơ quan y tế nhà nước, họ tụ họp để lễ bái Thần Linh cầu xin ân phước, lặn hụp dưới dòng sông đen ngòm, tanh tưởi và xem nước sông là nước thánh, múc lên uống để trị bệnh cũng như là để phòng chống dịch bệnh. Kết quả là một số đông người phải nhập viện vì sự lây lan.
- Những buổi lễ cầu an và cúng sao giải hạn tổ chức tại các chùa đã thu hút một số rất đông Phật Tử. Người ta cho rằng có cúng sao giải hạn mới hóa giải được những nạn tai xảy đến và cầu an để được buôn may bán đắt. Do ở sự nghĩ suy như thế mà vào các ngày lễ lớn, nhất là ngày đầu năm, số người đến chùa để dâng sớ cầu an và cúng sao giải hạn vô cùng đông đảo, đôi khi chen lấn, giành giựt nhau gây nên thương tích để được lọt vào bên trong chánh điện, như thế mới an tâm là "SỚ" của mình đã được đọc lên.
- Kể từ sau buổi lễ cúng giao thừa cho đến sáng mùng 1 Tết, người đầu tiên đến xông đất bắt buộc phải là người được lựa chọn, hợp tuổi, hợp tên, hợp luôn cả mệnh số với gia chủ, để đem lại tài lộc cả năm đến cho chủ nhà. Điều này đã đưa đến cảnh dỡ khóc dỡ cười, tạo nên một tình huống khó xử, đôi khi mang đến nhiều khó khăn không thốt được nên lời, chỉ vì người xông đất vô tình lại là một người không được lựa chọn trước.
- Đứa bé đang nóng sốt, nhiệt độ lên khá cao, nhưng cha mẹ vì quá mê tín dị đoan nên không đưa con đến bệnh viện để chạy chữa, chờ thầy đến để làm bùa phép, trấn áp ma quỷ, cuối cùng, đứa bé bị động kinh và qua đời.
Hỡi Vong Linh,
Qua những thí dụ vừa mới trình bày ở trên, Vong Linh đã nhận thức được hay chưa những sai lầm của mình trong việc chấp chặt từ lời nói, từ hành động, từ tình cảm, từ cường độ mê tín dị đoan của mình? Ngày còn Thân Xác, Vong Linh đã không buồn để ý đến những điều lầm lỗi này, thậm chí còn cho đó là việc đương nhiên; chính vì luôn chấp chặt những tư tưởng sai lầm, nhân sinh quan không đúng, cho nên Thân Xác của Vong Linh không hề nghĩ rằng mình đã làm chuyện sai trái, và cái kết quả của sai lầm chính là những điều không hay, những thương tâm xảy đến.
Chấp là một tánh xấu vô cùng cực, nó nói lên sự bướng bỉnh, sự thiếu lắng nghe, sự thiếu cảm thông. Vì quá chấp chặt ý của mình, cho nên luôn cho người khác là sai, là không đúng, ngay cả đôi lúc kết quả không tốt đã xảy ra mà cũng vẫn còn khư khư giữ lấy ý của mình.
Càng chấp, càng không phục thiện, sẽ càng mâu thuẫn với chính mình.
Càng chấp chặt, Thân Xác sẽ càng gặp nhiều khó khăn trong vấn đề giao tế. Nguyên tắc của giao tế, của sự giao dịch là sự dễ dàng cảm thông nhau để nhanh chóng đưa tới kết quả tốt đẹp; hợp đồng làm ăn mua bán cần phải được xúc tiến mau lẹ, mọi dự tính cần phải được giải quyết nhanh, gọn, không thể chần chừ, đắn đo, suy nghĩ quá lâu được.
Chưa biết rằng ý kiến của mình đúng hay sai mà lại chấp chặt quá, quyết định của mình sẽ khó được mọi người ủng hộ hay tán đồng.
Con người trong thời đại văn minh cao tột như hiện nay, thụ đắc một tự ái cao vòi vọi, do đó rất là cố chấp trong mọi vấn đề. Cho nên, việc tạo nghiệp rất dễ dàng xảy ra khi tự ái bị va chạm.
Vong Linh khi trở lại cõi Ta Bà, muốn có được một cuộc sống ít lụy phiền và tránh tạo nhiều nghiệp chướng thì hãy nên khắc cốt ghi tâm, ngay từ bây giờ, phải lánh xa cái tánh chấp chặt, phải luôn giữ tâm an ổn, biết lắng nghe để có sự cảm thông, biết buông bỏ tánh bướng bỉnh để dễ dàng tập trung tư tưởng mà nhận thức mọi sai lầm có thể xảy ra do từ lời nói, từ hành động cử chỉ, ngay cả từ ở tình cảm của chính bản thân mình.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 32:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Trong cuộc đời của kiếp mới vừa qua, hằng ngày Thân Xác của Vong Linh đã nghe qua tin tức, hay xem trên truyền hình những hình ảnh thương tâm của cái cảnh hoặc cha mẹ giết con cái, hoặc con cái sát hại cha mẹ; những cảnh tượng vợ chồng thanh toán lẫn nhau, anh chị em đấu đá giết hại lẫn nhau, bà con dòng họ tàn sát nhau không chút nương tay….Toàn thể những bức tranh bi kịch đó đã xuất phát từ ở cái tánh Ác Độc.
Trong giao tế hằng ngày, những lúc đối xử với nhau không vừa ý, không thuận lợi, làm mất lòng nhau, thế là "luật rừng"sẽ được áp dụng một cách không nương tay. Cái tánh ác độc khiến cho người đời không từ nan làm bất cứ hành động nào mỗi khi quyền lợi bị xâm phạm. Ai cũng thủ cho mình một "chiêu độc đáo"để bảo vệ mối lợi, lợi càng lớn, chiêu thức xuất ra càng mạnh bạo, càng kinh khủng.
Người ta không ngại chửi bới nhau bằng những lời lẽ vô cùng độc hại, người ta nguyền rủa nhau, người ta hạ nhục nhau một cách không nương tay. Người ta giăng bẫy rập để cho đối phương sa lưới, người ta lập mưu, bày kế để thâu tóm hết tiền tài sản nghiệp của kẻ khác...tất cả cũng do từ cái tánh ác độc mà ra.
Con người đối xử với nhau trong sự bất công, trong sự chèn ép và chiếm đoạt. Kẻ giàu chỉ muốn trục lợi, ăn chận và cướp giựt của kẻ nghèo, không chi trả tương xứng với sức lao động của người phục dịch cho mình. Sự ác độc khiến cho "trái tim" của họ trở nên tê cứng, không còn biết xúc động, không còn biết cảm thương trước một nỗi bất hạnh nào cả.
Cái tánh ác độc khiến cho con người dần dà trở nên vô cảm, không biết thương xót, không biết cảm thông, không biết thế nào là tương trợ, không biết giang tay che chở hay cứu giúp cho một ai, lần hồi họ trở thành một con người ích kỷ, hẹp hòi, chỉ biết có bản thân mình, không ai muốn giao tế vì người ta e sợ những phản ứng mang đầy tánh ác độc có thể gây thiệt hại cho mình.
Trên thương trường, kẻ mang dòng máu ác độc trong người lúc nào cũng tính toán những phương cách thu lợi về phần mình một cách tối đa, bất cần sự thua thiệt của người giao dịch buôn bán với mình, nếu mối lợi quá lớn thì cũng chẳng ngại gì mà mượn tay giang hồ để thanh toán đối phương.
Trên chính trường, cái tánh ác độc ẩn tàng trong cách đối xử với đối thủ của một chính trị gia. Ai cũng muốn giành chiến thắng, ai cũng muốn sự ủng hộ của cử tri, do đó chính trị gia đã không ngại tung chiêu "dơ bẩn", vạch lá tìm sâu, moi móc đời tư của đối thủ, thêm mắm dặm muối, đặt điều đặt chuyện cốt sao cho cử tri xa lánh mà không dồn phiếu cho đối thủ của mình.
Đã có không ít những chính trị gia muối mặt, cam tâm làm đầy tớ cho ngoại bang, nhận sự tài trợ, nhận sự cổ võ của nước ngoài để được êm ái ngồi lên chiếc ghế Tổng Thống cao tột, hoặc chiếc ghế Thượng Nghị Sĩ hay Dân Biểu, để rồi sau đó đưa dân tộc mình đến cảnh lầm than, khốn khó theo đúng kế hoạch của ngoại bang.
Hằng ngày, nhan nhản trên đường phố, những cảnh tượng kẻ mạnh hiếp đáp người thế cô, những tay giang hồ anh chị ỷ có súng, có dao, tha hồ muốn làm gì thì làm, người dân thấp cổ bé miệng khó lòng cất tiếng kêu la.
Có những kẻ sống trên thân xác của phụ nữ, nhưng lại dang tay hành hạ phụ nữ không một chút xót thương. Ngoài ra, còn có những kẻ lợi dụng trẻ thơ trong việc đi xin ăn, mang tiền về cho họ mỗi ngày, nhưng lại đối xử thật là tàn nhẫn với trẻ thơ, thẳng tay đánh đập và cho ăn thiếu thốn để đứa bé luôn gầy còm, dễ gây tạo sự thương cảm và bố thí của người qua đường.
Tất cả những hành động này đều xuất phát từ ở cái tánh ác độc mà ra.
Hỡi Vong Linh,
Ngày giờ này không còn Thân Xác nữa, nhìn lại cuộc đời đã qua, Vong Linh hãy thành thật với chính mình để có thể nhận thức được cái tánh ác độc đã được triển khai như thế nào? Thân Xác của Vong Linh là kẻ chủ động hay là nạn nhân của cái tánh xấu xa đó?
Chính sự tham lam, nhiều dục vọng, tự ái cao ngất trời, đã đưa đến việc triển khai cái tánh ác độc, để rồi từ đó dẫn đến nhiều hệ lụy.
Những thảm kịch gia đình đưa đến án mạng cũng chỉ vì dục vọng không được thỏa mãn, tự ái bị tổn thương quá nặng: con muốn tiền nhưng không được nên con vung tay khiến cha mẹ ngã gục, con đã chạm tự ái của mẹ cha quá nhiều nên cha mẹ phải sát hại con; anh chị em tranh giành tài sản đến phải thanh toán lẫn nhau.
Sợ mất mối lợi cho nên phải ra tay hạ độc thủ, bất chấp thủ đoạn, không từ nan những mưu mô xảo quyệt. Trên thương trường cũng như trên chính trường, ai nhanh tay nhanh chân thì được lợi, do đó, ra chiêu càng ác độc càng mau thu về kết quả tốt đẹp, càng chiếm thế thượng phong.
Cả một cái cõi Ta Bà, người người đều chăm lo hưởng lợi, mạnh ai nấy tung độc chiêu, càng ác độc càng thu vét nhiều, càng mau trở thành thủ lãnh cai trị cái đám dân đen nghèo cùng đói khổ, bị bóc lột đến tận xương tủy, chỉ còn biết đem thân làm nô lệ cho kẻ quyền uy, giàu có sai bảo.
Như thế cũng đủ hiểu tại sao biến động cứ luôn xảy tới, dịch bệnh tràn lan như thác lũ và số người chết vì dịch bệnh cứ càng lúc càng gia tăng. Tâm tánh con người quá ác độc, lúc nào cũng sẵn sàng vung tay giết người, hại người, nghiệp lực chất chồng như núi cao, tâm tánh quái ác tỏa khí đen bao phủ cả cái cõi Ta Bà, lấy cái gì mà cản ngăn biến động, dịch bệnh đây?
Vong Linh có chiêm nghiệm được chưa cái hậu quả tai hại của cái tánh ác độc, hay nói cho đúng hơn, của những tánh xấu mà người dân của cõi Ta Bà, trong đó gồm luôn cả Thân Xác của Vong Linh ở kiếp mới vừa qua, đã ôm ấp chúng từ biết bao lâu nay, từ kiếp này sang qua kiếp khác, và không biết cho đến bao giờ?
Nếu Vong Linh không biết lợi dụng thời gian đặc ân này để sám hối, để chỉnh sửa tâm tánh của mình thì bổn cũ soạn lại, chắc chắn rằng cuộc đời kế tiếp trên dương thế sẽ không thể nào tốt đẹp và cũng có thể là nghìn muôn sầu khổ, do ở việc là Thân Xác của Vong Linh trong kiếp mới vừa qua, đã có từng nhúng tay vào việc tạo nên nhiều nghiệp chướng nặng nề.
Hãy nhớ rằng, chỉ có sự chân thành sám hối, ăn năn, sự quyết tâm chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh mới có thể hóa giải, làm cho tiêu một phần nào nghiệp chướng mà thôi!
Vong Linh hãy ráng tư duy cho thật kỹ lời Pháp hôm nay, đừng bỏ lỡ cơ hội mà uổng phí một kiếp Người.
Bài pháp đến đây là chấm dứt
Ngày thứ 33:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Ở kiếp mới vừa qua, Thân Xác của Vong Linh đã có từng trải nghiệm bao giờ chưa về một nỗi sợ hãi nào đó? Đã là một con người thì chắc chắn rằng sẽ không có ai là chưa từng nếm qua mùi sợ hãi!
Ngày còn tấm bé, cứ mỗi lần bị té, bị vấp ngã, có trầy trụa, có chảy máu, nỗi đau đớn pha lẫn với sự sợ hãi khiến cho đứa bé khóc ngất, mẹ cha hay người thân phải dỗ mãi bé mới nín.
Tiếng khóc, tiếng la hét là dấu hiệu của một sự sợ hãi về một tác động tinh thần hay vật chất nào đó lên trên đứa bé.
Ngày mới chào đời, đứa bé khóc vì đói, khóc vì lạnh, khóc vì đau bụng hoặc vì đau ở một nơi nào đó trên cơ thể, đứa bé cũng có thể khóc vì nhõng nhẽo, đòi mẹ ôm chặt trong lòng và đu đưa ru ngũ (theo cách tập của Mẹ).
Đứa bé lớn dần lên, đã biết cười đùa, chạy giỡn khắp nhà, vẫn còn tiếng khóc, nhưng tiếng khóc bây giờ biểu hiện một cách rõ rệt hơn về một nỗi sợ hãi, và nỗi sợ hãi đó cũng được định rõ hơn về tính chất.
Đứa bé khóc vì sợ bị bỏ đói - khóc vì sợ bị mẹ phạt - khóc vì bị bạn tranh giành đồ chơi hay khóc vì đòi đồ chơi - khóc vì không muốn đi ngủ sớm - khóc vì không được cho đi chơi - khóc vì không được yêu thương……
Lớn thêm chút nữa, đứa bé bây giờ không còn khóc nữa, nhưng là một sự biểu lộ băn khoăn khi mình không đạt được những gì mà mình mong muốn, và sự băn khoăn đó được diễn đạt bằng từ ngữ SỢ.
Tôi sợ bị Thầy Giáo phạt vì làm chưa xong phần bài tập ở nhà - Tôi sợ không qua nổi kỳ thi này - Tôi sợ làm mẹ cha tôi buồn - Tôi sợ không có dịp đi thăm nơi chốn đó - Tôi sợ Bà tôi không còn thương tôi nữa….
Càng trưởng thành theo năm tháng, càng chung đụng với nhiều hạng người trong cuộc sống, càng giao tế, càng tiếp xúc, càng xông pha, cuộc đời sẽ gắn thêm nhiều...rất nhiều chữ SỢ.
Sợ không thành danh - sợ không cưới được người mình yêu - sợ nghèo khổ - sợ không có con nối dõi tông đường - sợ không mua được chiếc xe mình thích - sợ bị mất công việc làm - sợ không hoàn thành được công trình xây dựng ngôi nhà trong mơ - sợ không đạt được địa vị mình mong ước...
Đối với những kẻ lang bạt, sống đời giang hồ, những tên anh chị xem thường luật pháp, họ vẫn có những nỗi SỢ.
Sợ món hàng lậu không trót lọt - Sợ những tên đàn em phản lại mình - Sợ mạng mình không đứng vững - Sợ đàn anh không vừa ý có thể phạt mình - Sợ bị sa lưới pháp luật - Sợ không thoát được sự phản công của địch - Sợ không thể đánh tay đôi với đối thủ này...
Những chính trị gia vẫn tự hào về khả năng trị quốc, trị dân của mình, cũng vẫn không thoát ra ngoài cái chữ SỢ.
Sợ đối phương vạch trần bí mật đời tư của mình - Sợ không đạt được chiếc ghế Chủ Tịch tối cao - Sợ dự án này không thành công - Sợ dự luật này sẽ hủy đi mối lợi lớn lao - Sợ ngoại bang không tin tưởng nơi mình - Sợ không còn uy tín với cử tri nữa…..
Ngay cả những người dân nghèo khổ, cái chữ SỢ nó to tát biết là dường nào!
Hôm nay có cơm ăn, sợ rằng ngày mai sẽ không có nữa - Sợ bán không hết gánh chè ngày hôm nay, cả nhà lại phải ăn chè thay cơm - Mưa lớn quá, sợ căn chòi này bị sập - Sợ bán không đủ tiền để đóng học phí cho con - Sợ khi chết rồi không có ai nuôi con - Sợ không còn đủ sức lực để đi làm - Sợ không thể giúp cha già qua cơn bệnh nặng…..
Và ngay cả Vong Linh đang hiện diện nơi đây cũng đã từng hoảng hốt với một niềm sợ hãi tột cùng khi biết được rằng mình đã CHẾT!
Sợ Hãi là một cái tánh, nguồn gốc của nó vẫn là bắt nguồn từ ở tánh Tham, tánh Sân và tánh Si
Tất cả những gì tôi mong muốn, từ một động sản hay bất động sản, từ một tình cảm riêng tư cho đến tình cảm thuộc về gia đình cha mẹ, anh chị em, dòng họ, chí đến địa vị quyền uy, tiền tài, hạnh phúc, kể cả những sự việc, sự vật, sự kiện xảy ra chung quanh cuộc sống hằng ngày...đều gây tạo cho tôi một sức ép, một nỗi lo âu đến sợ hãi nếu tôi không thể thụ đắc chúng được.
Một tự ái cao tột, một sự thua thiệt, sự uất hận, sự oán hờn, sự trách móc, sự rẻ khinh...tất cả đều dẫn đến một sự sợ hãi.
Một quyết định sai lầm thiếu sáng suốt, một ý tưởng điên rồ đến làm hại chết người, một hành động khờ dại mang đến kết quả thảm khốc….sẽ tạo nên một nỗi sợ hãi to tát trong lòng của những kẻ gây tạo nên trách nhiệm.
Vong Linh có thấy chăng, sợ hãi là đường dây nối dài của cái rể tham-sân-si. Diệt được tham-sân-si hay ít nhất là giảm bớt được lòng tham - nỗi sân hận - sự si mê đến ngu đần, sẽ giúp cho con người sống thoải mái hơn.
Khi không còn bị lệ thuộc quá nhiều vào sự ham muốn, vào những dục vọng luôn dâng trào, thôi thúc để đạt cho được, con người sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn, bước chân ít nặng nề nên đâm ra dễ cất bước!
Sự sân hận từ ở một tự ái lúc nào cũng sẵn sàng dâng trào khiến cho con người trở nên mệt mỏi vì phải luôn tìm cách đối phó, mà càng đối phó thì nỗi sợ hãi càng gia tăng.
Kẻ si mê ngu đần luôn làm điều sằng bậy, sóng gió chực chờ để nổi lên, niềm sợ hãi cứ dồn dập không ngừng.
Vong Linh nơi đây đã từng trải qua cái kinh nghiệm sợ hãi khi nhận ra được là mình đã không còn trên cõi Đời nữa. Tại sao Vong Linh sợ hãi? Đó là vì Vong Linh vẫn còn tha thiết đến sự sống, vẫn còn không muốn xa rời những gì mình yêu thương, yêu thích, những gì mình sở hữu.
CHẾT là bứt, phá... hết tất cả những gì trong vòng tay của Thân Xác của Vong Linh, Vong Linh sợ mất chúng, sợ phải lìa xa chúng.
Giờ đây Vong Linh đã nhận chân ra được rằng, cuộc đời trên cõi Ta Bà là vô thường, không có cái gì là trường tồn cả, tất cả cũng chỉ là thoạt có, thoạt không, chỉ có cái Thần Thức của Vong Linh mới thật là đáng kể, nó mới thật là sát cánh với Vong Linh trên khắp nẻo luân hồi.
Thân Xác của Vong Linh vui buồn cũng từ nó - đớn đau cũng từ nó - thoải mái cũng từ nó - ung dung tự tại cũng từ nó.
Nói tóm lại, sự hiện diện của Thần Thức vô cùng quan trọng, Vong Linh còn chần chờ gì mà không lợi dụng thời gian đặc ân để giúp cho Thần Thức, biết sám hối ăn năn những điều sai lầm đã gây tạo, biết chỉnh sửa Tâm - Ý cho được ngời sáng lên, và điều vô cùng quan trọng là biết khắc cốt ghi tâm, loại bỏ tất cả những thói tật xấu xa của mình, đồng thời gắng sức trau giồi từng tánh tốt. Đó chính là tạo một hành trang vô cùng quý báu cho chuyến đi trở lại cõi Ta Bà của Vong Linh.
Với mớ hành trang đáng giá này, Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ có được cuộc đời tốt đẹp, ít sóng gió, nhiều tự tin và sẽ không còn quá nhiều nỗi sợ hãi bên mình.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 34:
Hồi tưởng lại cuộc đời ở kiếp mới vừa qua, Vong Linh có từng là nạn nhân của những vụ lừa đảo hay không? Vong Linh đã có từng bao giờ nhúng tay vào việc lừa đảo người khác hay không?
Có thể nói rằng, hằng ngày đã có không biết bao nhiêu là những vụ lừa đảo xảy ra trong cuộc sống. Người ta có thể lừa nhau vì một ổ bánh mì nho nhỏ, người ta lừa nhau vì một số tiền mọn, người ta lừa nhau vì một món đồ nhỏ nhoi không đáng giá, người ta lừa nhau vì một tự ái hảo chợt nổi lên, người ta lừa nhau vì một câu nói vu vơ, không chính đáng...Đây cũng chỉ là những lừa đảo có tính cách trẻ con!!
Giới giàu có thượng lưu sở hữu những mánh khóe lừa đảo vô cùng tinh vi, sâu sắc, dễ dàng che mắt người, có thể thu về những khoản tiền khá lớn, hay một tài sản nào đó.
Những chính trị gia càng chức cao trọng vọng, nhiều thế lực, nhiều quyền uy, thuộc "lão làng", mỗi khi ra chiêu lừa đảo, nạn nhân chỉ có nước ngã gục mà thôi.
Chính trường là nơi để cho các chính trị gia thi thố cái khả năng lừa đảo của mình, nhưng tiếc thay, đa số các nạn nhân bị lừa đảo lại chính là những người dân vô tội, những người dễ tin, những người thích tôn thờ "Thần Tượng".
Hầu như chính trị gia nào cũng đều sở hữu ít nhiều cái khả năng lừa đảo trong người, số chính trị gia chân chính, một lòng vì dân vì nước đã biến mất lần lần trong xã hội hiện nay.
Người trẻ thì cố gắng chen cho lọt vào đấu trường chính trị để tìm cách tiến thân, do đó, tự bản chất đã trang bị nhiều lọc lừa để sẵn sàng đấu đá nhau, tranh giành nhau từng cử tri, từng chức tước, từng địa vị.
Người đã từng lăn lộn trên chính trường thì cố gắng bám víu để giữ cái địa vị của mình càng lâu càng tốt, do đó vẫn không ngại "xuất chiêu lừa đảo" khi cần.
Giới lãnh tụ cũng chơi trò lừa đảo khá là ngoạn mục!
Bất kể tình thế như thế nào, diễn biến thuận nghịch ra làm sao, miễn là có lợi cho đất nước mình, cho dân tộc mình, là cứ thẳng tay hành động với một hay nhiều Quốc Gia khác.
Đôi khi cũng không phải vì quyền lợi của Quốc Gia Dân Tộc, mà chính vì cái tư lợi của kẻ cầm quyền mà trò lừa đảo được tung lên khiến cho cả hai hay nhiều dân tộc đều rơi vào cảnh lầm than!
Kẻ chơi trò lừa đảo khá tinh vi, che đậy giỏi, lọc lừa hay cũng có thể lôi cuốn nhiều quốc gia trên thế giới bước vào cảnh dở khóc dở cười, tạo nên cảnh bất an bất ổn cho nền hòa bình thế giới.
Trong giao tế hằng ngày, những chiêu trò lừa đảo gần như thường xuyên xảy ra trong cuộc sống.
Lừa đảo để thu về mối lợi lớn - Lừa đảo để chiếm đoạt một tài sản - Lừa đảo để chiếm đoạt một tình cảm - Lừa đảo để chiếm đoạt tiền bạc - Lừa đảo để tranh giành một ngôi vị hay một địa vị, một quyền uy nào đó - Ngay cả lừa đảo để giành lấy một chút cơm thừa canh cặn...
Hỡi Vong Linh,
Những tai hại của việc lừa đảo đã được lần lượt vạch ra để cho Vong Linh chiêm nghiệm. Ngày còn sự sống trên dương thế, Thân Xác của Vong Linh có khi là kẻ chủ mưu lừa đảo, cũng có khi là nạn nhân của sự lừa đảo, cả hai bên đều rất là bận rộn. Kẻ lừa đảo thì không ngừng tính kế, bày mưu, có bao giờ rảnh tay để chiêm nghiệm hành động của mình đâu, mà nếu đã biết chiêm nghiệm thì chắc hẳn sẽ phải dừng tay, đâu còn tiếp tục tính kế hại người nữa. Còn nạn nhân của sự lừa đảo thì ôm lấy lụy phiền, tức tưởi, nghẹn ngào, vật vã than trời trách đất, cũng chả có thì giờ để xét đoán hành vi lừa đảo của đối phương.
Lừa đảo là một hành vi tạo tội rất nặng, nó bao gồm tội danh nói láo, nói lời không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, bên cạnh đó là một sự lường gạt trắng trợn, lợi dụng lòng tin yêu, sự thương mến, tình cảm dồi dào, sự nhiệt thành ủng hộ của một người hay một số đông để giở trò cướp giựt, chiếm đoạt.
Sự lừa đảo còn đưa tới một hậu quả vô cùng tai hại là đôi khi làm thiệt mạng kẻ bị lừa đảo do ở sự uất ức vì quá tin tưởng vào miệng lưỡi của kẻ lọc lừa. Tiền mất, tài sản mất, tình cảm mất, gia đình tan nát, tất cả bỗng trở thành một hố sâu thăm thẳm, đen ngòm, không một chút ánh sáng, đẩy kẻ bị lừa đảo vào một tâm trạng hoang mang, mất niềm hy vọng, mất sự tự tin, mất đi nghị lực sống và tiến lần vào cõi Chết.
Một chính trị gia chơi trò lừa đảo với cử tri sẽ khiến cho cử tri mất đi cái dịp lựa chọn được người tài giỏi thực sự, dân chúng lầm lẫn bầu cho kẻ bất tài vô dụng, và trong suốt nhiệm kỳ của chính trị gia lừa đảo đó, dân chúng có thể sẽ gặp phải nhiều khó khăn trắc trở trong cuộc sống vì những quyết định kém sáng suốt cho đến sai lầm của chính trị gia này.
Lãnh tụ lừa đảo vì háo danh hay vì tư lợi cũng đều mang đến sự lầm than cho chính dân tộc của mình cũng như đem sự liên lụy đến cho các dân tộc khác.
Một dân tộc bị lừa đảo, liệu rằng họ có ngồi yên để cho vị lãnh tụ đó ung dung cưỡi trên đầu trên cổ của họ chăng? Có thể lúc đầu vì quá bất ngờ, chưa kịp phản ứng, họ cam lòng nhận chịu sự lừa đảo, cam tâm làm kẻ bị thiệt thòi, nhưng dần dà, tự ái của một dân tộc khiến cho họ vùng lên và tìm cách trả thù, khi đó thì kẻ phải hứng chịu sự thiệt thòi lại chính là dân tộc của vị lãnh tụ chuyên đi lừa đảo đó.
Một lãnh tụ chuyên lừa đảo, mị dân chắc chắn sẽ không bao giờ đem đến cho dân tộc mình một cuộc sống ấm no, hạnh phúc được.
Một kẻ chuyên sống trên sự lừa đảo, gạt gẫm sẽ là một ký sinh trùng trong xã hội, không ai muốn tiếp cận, không ai muốn giao tế.
Trong gia đình, trong dòng họ có thân nhân là kẻ chuyên lừa đảo, gạt gẫm người, không sớm thì muộn, gia đình đó cũng tan nát, dòng họ đó cũng phân tán, một khi gạt người ngoài không được, túng thế phải quay lại gạt người trong nhà để thoát cơn nguy khốn.
Tuy nhiên, điểm chính yếu đề cập đến nơi đây, đó là, hậu quả của việc lừa đảo là sự hình thành của một nghiệp lực khá lớn lao, bao gồm luôn cả nghiệp sát. Nhiều tánh xấu đã gom tụ chung quanh 2 chữ lừa đảo để tạo nên một hậu quả khó lường cho một nghiệp lực đã gây tạo.
Chính vì vậy mà Vong Linh phải để tâm rất nhiều vào vấn đề sửa tánh. Có giúp cho Thần Thức sửa đổi những tánh xấu, những thói hư thì khi trở lại cõi Ta Bà, Thần Thức sẽ trở nên những đứa con Ngoan, không quậy phá, không làm những điều sai trái, giúp cho Thân Xác Mới có được một sự an ổn trong cuộc sống, và nhất là không tạo cơ hội để dễ dàng gây nên oan trái.
Vong Linh hãy tư duy cho thật kỹ lời Pháp hôm nay, và hãy nhớ rằng, thời gian đặc ân trôi qua cũng rất nhanh, một sự thiếu thành tâm thành ý sửa đổi sẽ làm hỏng cả một công trình gầy dựng một tương lai tốt đẹp cho KIẾP NGƯỜI KẾ TIẾP.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 35
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
49 ngày đặc ân giúp cho Vong Linh chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh của mình, nhất là biết trui rèn những tánh tốt và cương quyết triệt tiêu những tánh xấu, Vong Linh chuẩn bị để trở lại kiếp Người. Tùy theo Nghiệp Duyên kế tiếp của Vong Linh mà Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ giúp đỡ để tìm Mẹ, tìm Cha.
Tuy nhiên, như đã trình bày trong những bài Pháp trước, nhân duyên trở lại làm Người còn tùy thuộc rất nhiều vào sự tác hợp của Cha và Mẹ. Khi mà Cha vẫn còn một nơi, Mẹ vẫn còn một nẻo, Vong Linh vẫn phải chờ đợi….chờ đợi cho đến ngày Mẹ Cha giao hợp, sự thụ thai xảy ra, khi đó Thần Thức mới chính thức bước vào thai noãn, chờ ngày khai hoa nở nhụy, cất tiếng khóc đầu Đời, bắt đầu một kiếp Người trong một Thân Xác Mới.
Còn một nỗi ê chề mà chắc chắn rằng không có bất cứ Vong Linh nào mong mỏi, đó là trường hợp Mẹ Cha không vừa ý với cái thai trong bụng, cho nên thẳng tay phá hủy, khiến cho Thần Thức không còn nơi an trụ, đồng thời tạo sự khó khăn, rắc rối cho Bồ Tát Địa Tạng Vương trong việc tìm kiếm Cha Mẹ khác cho Vong Linh.
Như thế thì Vong Linh đã thấy rằng, việc trở lại làm Người không phải dễ, dù là vẫn phải đắm chìm trong Bể Khổ Trầm Luân.
Tuy nhiên, khi đã được làm Người rồi, đã là một Chúng Sanh trong cõi Ta Bà rồi, không cần biết mình lặn hụp ra sao trong cái Biển Khổ mênh mông đó, mỗi Con Người vẫn phải hành xử cái tư cách NGƯỜI của mình một cách đứng đắn, đúng ý nghĩa và tuyệt đối không bao giờ để sa chân vào Tam Đồ, Địa Ngục - Ngạ Quỷ - Súc Sanh.
Ngày hôm nay, Vong Linh may mắn được chỉ dẫn cho tu tập, biết cách chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh để cải thiện Thần Thức của mình khi trở lại cõi Ta Bà, giúp cho Thân Xác Mới sống đời an ổn, ít lụy phiền, do đó Vong Linh hãy ráng mà giùi mài, trau chuốt những tánh tốt, việc làm đó sẽ mang lại một lợi ích vô cùng tận trong suốt thời gian Thân Xác Mới hiện diện ở cõi Đời.
Đối phó với Nghiệp lực vẫn phải nhờ sự trợ lực của những tánh tốt.
Muốn có cuộc sống yên ổn, thoải mái, điều kiện cần phải có trước tiên là những tánh tốt. Tánh tốt sẽ giúp cho một người luôn ĐỐI TỐT với người chung quanh, như vậy việc ĐÃI TỐT đương nhiên sẽ hồi đáp.
Một con người sống với nhiều tánh tốt sẽ dễ dàng kiện toàn cái tư cách Người của mình.
Chính những tánh tốt mới giúp cho một con người dễ dàng thăng hoa để tiến đến những đẳng cấp cao sau khi bỏ báu thân.
Từ Quá Khứ cho đến Hiện Tại, nhất là ở kiếp mới vừa qua, vì thiếu tư duy, thiếu sự dẫn dắt, vạch vòi, chỉ vẽ, cho nên Vong Linh đã nhúng tay vào biết bao nhiêu chuyện sai trái, gây tạo nhiều oan trái, nhiều nỗi thương tâm, làm hại bản thân mình và gây bao thiệt hại cho người chung quanh. Tất cả cũng đều là do từ ở việc thụ đắc những tánh xấu mà ra.
Trở lại cõi Ta Bà, được trang bị nhiều tánh tốt, Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ tích cực hơn trong việc đối xử với những người mình giao tế. Sự chia sẻ từ vật chất đến tâm linh giúp cho Thân Xác Mới hành xử được cái Tình Tương Trợ, một yếu tố căn bản tạo nên Tư Cách Làm Người.
Chính cái tư cách làm Người mới đưa đến sự phân biệt giữa loài Người và loài Thú.
Chỉ có loài Người mới biết yêu thương nhau, đùm bọc lẫn nhau, nâng đỡ nhau, hy sinh cho nhau, nhường nhịn lẫn nhau, đem niềm vui cho nhau, sống trong hòa bình và tôn trọng lẫn nhau. Tất cả những tánh tốt kể trên đã giúp cho một con người sống đúng với tư cách con Người của mình.
Vong Linh hãy nhớ rằng,
Bên cạnh Mẹ Cha còn có Ông Bà Nội Ngoại, còn có bà con dòng họ Nội lẫn họ Ngoại, ít thì vài mươi người, đông thì lên đến số vài trăm. Con số này chỉ riêng cho một kiếp người.
Vong Linh không phải lần đầu tiên đến cõi Ta Bà, mà đã tới lui không biết bao nhiêu lần rồi, 100 lần, 1000 lần, vạn lần...Cứ mỗi lần đến là có một số người liên hệ với mình. Quanh đi, ngoảnh lại, tất cả đều là người quen biết cả. Tuy là xa lạ ở kiếp này, nhưng lại rất là quen thuộc ở kiếp mới vừa qua, hay ở nhiều kiếp trong quá khứ.
Giúp đỡ cho đồng bào của mình chính là giúp đỡ cho những thâm tình ruột thịt với mình trong quá khứ.
Điều quan trọng mà Vong Linh bắt buộc phải ghi nhớ là, kẻ thù của mình ở hiện kiếp có thể đó là Cha hoặc Mẹ hoặc Anh Chị Em hay bất cứ một Thâm Tình ruột thịt nào của mình trong quá khứ. Do đó, đừng quá sân hận, đừng quá vội vàng vung đao hay bóp cò súng mà làm thương tổn một thâm tình.
Hãy sống đúng với tư cách con Người của mình qua những tánh tốt.
Một kiếp Người thường kéo dài không quá 100 năm. Hãy lợi dụng thời gian hiện diện ở cõi Đời để học hỏi, để trau giồi kiến thức, để làm phong phú kinh nghiệm sống của mình, để tôi luyện phần tâm linh, để thanh lọc, chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh của mình. Không thể nào cứ lặn hụp mãi trong Biển Khổ, cứ trôi lăn mãi trong vòng Sanh Tử Luân Hồi. Chư Phật và Bồ Tát đều mong mỏi Chúng Sanh của cõi Ta Bà được thăng hoa, có nghĩa là thoát vòng Sanh Tử, thoát kiếp Luân Hồi, sống đời tự tại ung dung, không còn lệ thuộc vào vật chất để khỏi phải bị những dây thòng lọng của Tham-Sân-Si siết cổ mình từ kiếp này sang kiếp khác.
Vong Linh hãy ráng ghi nhớ những lời nhắn nhủ nơi đây, để khi trở lại cõi Ta Bà sẽ sống tốt hơn, sống có ý nghĩa hơn và sống đúng với tư cách NGƯỜI của mình.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
TUẦN THẤT THỨ SÁU:
Ngày thứ 36:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Đa số Chúng Sanh trên cõi Đời, không ít thì nhiều vẫn mang một niềm đam mê về một cái gì đó. Ngày còn trên Dương Thế, chắc chắn rằng Thân Xác của Vong Linh cũng không thoát được cái thông lệ đó.
Toàn cõi Ta Bà có rất nhiều Quốc Gia, mỗi Quốc Gia, mỗi Dân Tộc có một nền văn hóa riêng biệt, độc đáo, phù hợp với tình tự dân tộc của Quốc Gia đó. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến niềm đam mê của người dân trong xứ.
Một dân tộc sống trong một khung cảnh bao bọc bởi rừng núi chập chùng, suối đồi uốn khúc, thác ghềnh tuôn đổ, chắc chắn rằng niềm đam mê của người dân sẽ quay quanh việc săn bắn, đua thuyền trên suối hay trên ghềnh thác. Ngoài ra cũng còn có những đam mê nho nhỏ khác xoay quanh cái môi trường của quốc gia mình.
Bên cạnh đó cũng phải kể đến những đam mê có tính cách nghệ thuật như: âm nhạc, kịch nghệ, điện ảnh, sân khấu, ca cổ nhạc, tân nhạc, hội họa, thi ca, văn chương, thi phú, đánh cờ v...v.... Hay những đam mê có tính cách khoa học trong việc tìm tòi, nghiên cứu trong tất cả những bộ môn thuộc về khoa học hoặc về khảo cổ.
Niềm đam mê còn trải dài trên khoa thiên văn học, trên những tục lệ, những trò chơi nhân gian, trên những bộ môn thể thao, và còn...còn rất nhiều lãnh vực khác để cho niềm đam mê được phát tán rộng rãi thêm ra.
Từ nãy giờ đã vạch rõ cho Vong Linh thấy rằng, niềm đam mê của Chúng Sanh rất là đáng kể, nó lan tỏa trên một bình diện rộng lớn và tạo một tầm ảnh hưởng vô cùng là sâu rộng.
Không có niềm đam mê, sự thành công khó thành tựu mỹ mãn. Những tư tưởng mới chớm, muốn thành hình đều bắt buộc phải đi kèm với đam mê.
Tuy nhiên, Vong Linh hãy ghi nhớ điều này:
Phải biết giới hạn niềm đam mê của mình. Hãy lựa chọn mục tiêu cho sự đam mê, không thể nào đam mê nhiều thứ trong cùng một lúc, vì điều đó sẽ khiến cho đam mê không còn có ý nghĩa nữa và khó đi đến sự thành công.
Đừng để những tánh xấu ảnh hưởng đến sự đam mê. Cờ bạc, rượu chè, hút sách, ăn chơi sa đọa là những tánh xấu làm tiêu mòn niềm đam mê.
Sự tham lam quá độ có thể hủy hoại một công trình trong chớp mắt. Một phút nóng giận, không kềm được tự ái dâng trào, khiến cho bao nhiêu công khó được xây dựng từ ở một niềm đam mê phải sụp đổ hoàn toàn. Cuối cùng là một sự si mê, thiếu sáng suốt, dù chỉ trong một giây, một phút, cũng vẫn làm hỏng cả một kế hoạch, một dự án đã được ấp ủ từ một niềm đam mê trong một thời gian rất dài.
Vong Linh phải luôn luôn nhớ rằng: niềm đam mê phải thực sự phục vụ Chúng Sanh chớ không phải chỉ để thỏa mãn tự ái cá nhân của mình.
Niềm đam mê của những nhà nghiên cứu y học là sự miệt mài trong phòng thí nghiệm để tìm tòi một thứ thuốc nào đó giúp cho dân chúng thoát được căn bệnh quái ác, cướp đi mạng sống của rất nhiều người.
Nếu kể về thời gian trong quá khứ, nhờ có niềm đam mê từ ở những khoa học gia, những nhà bác học mà thế giới văn minh ngày nay mới có đầy đủ những tiện nghi trong cuộc sống từ vật chất cho đến tinh thần.
Đa số những đam mê của Chúng Sanh thường tình đều phụng sự cho Tự Ái.
Niềm đam mê đặt vào trong văn chương thi phú sẽ giúp cho tác giả rất nhiều trong việc sáng tác những áng văn hay, những bài thi ca bất hủ.
Một ca sĩ, một nhạc sĩ, một kịch sĩ sẽ thành công vẻ vang hơn nếu đặt trọn vẹn niềm đam mê vào tài năng của mình trên sân khấu.
Một họa sĩ với những bức họa vô cùng độc đáo, lưu danh kim cổ là nhờ đã cặm cụi miệt mài làm việc với tất cả sự đam mê và sáng tạo.
Tuy nhiên, những cô thầy giáo đặt tất cả niềm đam mê của mình vào việc dạy dỗ cho nhiều thế hệ học sinh nên người hữu dụng, niềm đam mê đó mới đúng nghĩa là phụng sự cho nhân quần, xã hội.
Niềm đam mê của một nhà văn, nhà thơ hay của một nhạc sĩ đặt vào một tác phẩm văn chương hay thi phú hoặc một bài nhạc, có thể giúp cho bệnh nhân qua được cơn trầm cảm, lấy lại niềm tin yêu về cuộc đời, đó chính là niềm đam mê phụng sự cho lợi ích của tha nhân.
Tất cả những việc làm đi kèm với đam mê, mang tính cách phục vụ cho quần chúng đều rất đáng được ghi nhận và khuyến khích.
Vong Linh hãy ghi nhớ rằng, bất cứ một việc làm nào của mình cũng đều nhắm vào mục tiêu Quần Chúng chớ không phải Cá Nhân. Đó chính là điểm mấu chốt của Tình Tương Trợ.
Vong Linh cũng đã thấu hiểu rằng, những người sống chung quanh mình, hằng ngày giao tế, tiếp xúc với mình, quay đi ngoảnh lại, không phải là người xa lạ, mà chính là những thâm tình ruột thịt của mình từ trong kiếp quá khứ.
Từ nơi họ, mình cũng đã từng có những thương yêu, cũng đã có đôi lúc ghét bỏ giận hờn nhau. Khi gặp lại nhau ở hiện kiếp, Thân xác tuy có đổi thay, nhưng Thần Thức vẫn không có gì thay đổi cả.
Chỉ có điều rằng, trong Thân Xác Mới, Thần Thức không thể triển khai những gì thuộc về quá khứ được. Tuy nhiên, quá khứ vẫn còn đó với đầy ắp những tình cảm thương - giận - buồn - đau.
Chính vì lẽ đó mà Chúng Sanh phải hết lòng với nhau khi có dịp tiếp xúc, cận kề.
Từ bấy lâu nay, trải qua nhiều kiếp Người, Thân Xác của Vong Linh không có cơ hội để học hỏi, để hiểu biết về đời sống Tâm Linh, về những gì đã xảy ra trong kiếp Người của quá khứ gần lẫn quá khứ xa.
Gần như đa số Chúng Sanh của cõi Ta Bà thiên về Cá Nhân hơn là Tha Nhân. Do đó, mọi người sống khép kín, ít cởi mở, sống ích kỷ và rất hẹp hòi, chỉ nghĩ đến bản thân mình và nhìn những người chung quanh mình với đôi mắt rất là xa lạ.
Tư tưởng "sống chết mặc ai" bắt nguồn từ ở nhân sinh quan này, và Tình Tương Trợ chưa được hưởng ứng một cách tích cực.
Khi trở lại cõi Ta Bà, Vong Linh hãy đặt trọn niềm đam mê của mình vào công việc, vào hành động có tính cách phục vụ cho nhân quần, cho xã hội để cho Tình Tương Trợ được thắt chặt hơn, được bền vững hơn.
Vong Linh hãy khắc cốt ghi Tâm lời Pháp hôm nay để khi trở lại Cõi Ta Bà sẽ sống có ý nghĩa hơn trong sự thương yêu, đùm bọc và chia sẻ lẫn nhau.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 37:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Ngày còn sự sống ở cõi Ta Bà, chắc chắn rằng Thân Xác của Vong Linh cũng đã có lần thốt ra 2 tiếng "Quả Báo"!!
Tại sao lại thốt ra 2 tiếng đó? 2 tiếng đó mang một ý nghĩa gì?
Thật sự ra, từ ngữ đúng phải là "Nhân Quả Báo Ứng".
Nhân không Lành được gieo trồng ngay trong hiện đời, Quả không ngọt, quả đắng, quả chua lại nở rộ quá nhanh cũng ngay trong hiện đời. Do đó làm cho người gieo nhân không kịp trở tay, bỗng dưng lâm vào một tình huống khó khăn bất ngờ, khó lòng tháo gỡ.
Niềm đau này không biết thổ lộ cùng ai? Và cũng có khi mình chơi trò ném đá dấu tay, che mắt thiên hạ, qua mặt mọi người, ai cũng tưởng mình chân chính, lương thiện, hóa ra mình chính là kẻ gieo rắc đau thương, tạo cảnh bi ai cho người khác.
Nhân nào thì quả nấy! Nhân bi thương thì gặt quả bi thương. Có điều rằng khi quả đắng cay rơi vào túi áo của mình thì lại không có can đảm đón nhận nó, mà tung ngược lại cho ông Trời với lời lẽ trách móc, sao ông Trời quá là ác độc, quá là bất công, thương người này, ghét người kia, cho mình thì ít, cho người nọ thì nhiều.
Thử hỏi rằng, khi mình toan tính hay sắp xếp việc hại người, mình có trình lên hay báo cáo cho ông Trời biết những ý định, những hành vi của mình để lấy quyết định của ông Trời hay không?
Ngày giờ này, chỉ vì không muốn cho mọi người biết rõ những hành vi xấu xa đê tiện của mình, mà mình thẳng tay đổ lỗi cho ông Trời, Ông Trời ở xa quá, đâu có nghe được để mà hồi đáp thực hư.
Hằng ngày, có biết bao nhiêu chuyện thương tâm xảy ra chỉ vì người gây tạo nghiệp chướng không hề nghĩ đến "Quả Báo", không hề tin rằng, gieo nhân thì gặt quả, và gieo nhân nào thì gặt quả nấy!
Nếu quả đến nhanh thì sẽ nhận được nỗi ê chề cay đắng ngay trong hiện kiếp; quả đến chậm thì kiếp vị lai cũng sẽ đón nhận mà thôi, chắc chắn không vuột thoát đi đâu cả!!
Luật Nhân Quả là luật của Vũ Trụ, còn quanh quẩn trong vũ trụ là còn bị chi phối bởi Luật Nhân Quả.
Khoa học ngày nay đã tiến bộ vượt bực, mang đến cho con người một số "Cung" về Vật Chất vô cùng to tát, khiến cho người Đời quên mất đi những bậc thang giá trị trong cuộc sống. Con người xa lìa dần đời sống tâm linh của mình, quên bẵng rằng mình sở hữu một Linh Hồn. Con người cứ miệt mài theo năm tháng phụng sự cho Thân Xác, ít khi nghĩ đến cái Linh Hồn của mình, và nếu có nghĩ đến chăng thì cũng là tự cho rằng mình "mê tín dị đoan".
Cũng không thiếu những kẻ từ chối phần Linh Hồn của mình, chỉ chấp nhận những thực thể, những gì mà mình có thể sờ mó được, họ phủ nhận niềm tin tôn giáo, và bài bác sự hiện hữu của các Đấng Tối Cao, đôi khi tỏ ra láo xược và khích bác Thần Linh.
Đối với hạng người này, chỉ có Khoa Học mới thực sự là đáng quan tâm. Họ tin vào khoa học, họ nghĩ suy theo khoa học, họ hành động theo khoa học, họ bài bác hết tất cả những gì không dựa vào khoa học, không căn cứ vào khoa học.
Họ hoàn toàn không tin bất kỳ những gì thuộc về đời sống tâm linh và cho rằng đó là "phản khoa học". Tai ương, biến động xảy tới cũng sẽ chỉ nhận được từ nơi họ một cái nhún vai với 2 chữ "bình thường"!
Nói tóm lại, đó là hạng người quá khích, theo chủ thuyết "Vô Thần", có thể dư Trí Tuệ, thừa thông minh, nhưng vô cùng nghèo nàn, túng bấn phần Trí Huệ, một tia sáng dù rất nhỏ nhoi, mờ nhạt, họ vẫn không tài nào có được.
Hỡi Vong Linh,
Bỗng chốc mà Thân Xác đã không còn nữa, làm thân Vong Linh không cất nhắc nổi đôi chân, cứ giậm chân tại chỗ. Từng hành động, từng suy tư từ những ngày mình còn trên Dương Thế, hôm nay trở thành những viên đá nam châm nặng trịch, trì hút bước chân nhẹ như bông của Vong Linh, để không tài nào cất bước được.
Những viên đá nam châm đó chính là những nghiệp chướng mà mình đã gây tạo, là những lỗi lầm không được nhận thức, là những tư tưởng sái quấy, ngông cuồng do ở tánh tình quá nông nổi của mình khi còn Thân Xác.
Đã quá muộn màng khi nhận ra rằng mình đã thờ ơ, lãnh đạm với cái Linh Hồn của mình. Ngày giờ này Vong Linh chợt tỉnh ngộ để biết rằng, Linh Hồn là vĩnh cửu, Thân Xác là nhất thời. Chính cái Linh Hồn mới đáng được nâng niu, dạy dỗ, chăm sóc để thăng hoa.
Ngày còn hơi thở, nếu cái Linh Hồn được chắt chiu, lo lắng thì đương nhiên Thân Xác sẽ không thể nào sống buông thả, thiếu quy luật và thiếu cao thượng được.
Một Linh Hồn không được chăm chút, dắt dìu, sẽ không khác đứa con hoang với Tâm-Ý-Tánh bại hoại, càng tiếp tay cho một Thân Xác luôn được "nuông chiều" và sẵn sàng làm những việc sai trái.
Thế mới biết, con người chỉ trọng cái bề ngoài, không màng đến cái bên trong! Chính cái bên trong mới có thể giúp cho con người vượt lên cao ngay khi còn hơi thở.
Vong Linh cứ tư duy đi, trong suốt cuộc hành trình của mình trên Dương Thế, với cái tánh tình "nguyên thủy" mà mình đã cưu mang chúng từ kiếp quá khứ sang đến hiện kiếp của mình, không một chút sửa đổi nào cả, mình đã thật sự gây tạo ra bao nhiêu nghiệp chướng? Bao nhiêu lầm lỗi? Bao nhiêu quả báo?
Phải nhớ rằng, nếu mình còn trở lại cõi Ta Bà, tức là mình chưa từng biết sửa đổi Tâm-Ý-Tánh của mình ở kiếp mới vừa qua, hay nếu có sửa đổi đi chăng nữa thì cũng vẫn chưa có gì khởi sắc để có thể giúp cho mình tìm về một nơi chốn thác sanh nào đó tốt đẹp hơn cõi Ta Bà.
Ngày hôm nay, Vong Linh được hưởng thời gian đặc ân 49 ngày để giúp cho Vong Linh nhận chân được những sai lầm, những tội lỗi, những điều ác độc, những toan tính, lọc lừa, những thủ đoạn gian manh… mà Thân Xác của Vong Linh đã sử dụng chúng để thẳng tay hạ độc thủ một cách không thương tiếc đối với đồng loại của mình.
Không phải bất cứ sai lầm nào của Thân Xác của Vong Linh cũng đều nhận được Quả Báo; cũng vẫn phải hội đủ những nhân duyên giữa người ra tay ám hại và người bị ám hại thì Quả Báo mới kết thành.
Duy nhất chỉ có Thần Thức của Vong Linh mới hiểu rõ những hành vi ám muội của Thân Xác của Vong Linh mà thôi.
Do đó, đây chính là dịp để cho Thần Thức của Vong Linh hồi tưởng lại tất cả những điều sai trái, mờ ám trong suốt thời gian Thân Xác của Vong Linh hiện hữu trên Dương Thế. Để rồi sau đó, Thần Thức sẽ được chỉ dạy cho tu tập, biết chân thành sám hối ăn năn; được dạy cho Trì Chú để đem công năng của câu thần Chú của Phật và Bồ Tát làm mờ dần đi tội lỗi của mình; cuối cùng là đem tấm lòng chân thật của mình để niệm Phật và Bồ Tát, để giúp cho Thần Thức được nhẹ nhàng cất bước.
49 ngày tu tập là để giúp cho Thần Thức của Vong Linh chuẩn bị vào Đời, bước vào một cuộc đời mới với tất cả sự chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh. Tâm trong sáng, Ý cao thượng, không toan tính lọc lừa, nhất là với nhiều Tánh Tốt, chắc chắn rằng, Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ có được cuộc đời dễ chịu hơn, ít sóng gió hơn, ít gây tạo nhiều nghiệp chướng, nhiều oan khiên, để khỏi phải nhận nhiều Quả Báo.
Tâm Lành - Ý Thiện - Tánh Tốt sẽ là nền tảng vững chắc giúp cho Thân Xác Mới của Vong Linh có cơ hội gặp được Thiện Tri Thức dẫn dắt cho tu tập. Như thế thì lo gì Thần Thức không thăng hoa được sau khi bỏ báu thân? và cũng có thể sự thăng hoa xảy ra ngay trong hiện đời, nếu Thân Xác dốc lòng tu tập.
Có thể nói rằng, đây là con đường duy nhất giúp cho Vong Linh làm lại cuộc đời tốt đẹp hơn trong kiếp kế tiếp. Vong Linh hãy tư duy cho thật kỹ lời Pháp, và cố gắng tu tập để đạt đến thành công.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 38:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Trải qua cuộc đời mấy mươi năm trên Dương Thế, Thân Xác của Vong Linh đã đối diện với bao nhiêu "KẺ THÙ" rồi?
Ngày còn bé thơ, rời khỏi vòng tay của Mẹ, của Cha, đứa bé tập tễnh làm quen với không khí trường học, với Thầy Cô, với bạn bè nhỏ bé chung quanh. Nó cảm thấy lạc lõng giữa những tình cảm của những người xa lạ. Nó đón nhận những sự ân cần trìu mến và đồng thời cũng nhận luôn cả những ánh mắt thiếu thiện cảm, những thái độ kém hòa nhã, thiếu lễ độ từ ở các bạn nhỏ.
Dưới mắt của đứa trẻ, những ai đem lại cho nó niềm vui, nụ cười, sự sảng khoái, đều được nó xem là BẠN.
Ngược lại, kẻ nào thiếu nhã nhặn đối với nó, thường hay bắt nạt nó, nó sẽ không ngại gì mà cho đó là KẺ THÙ.
Đứa bé càng ngày càng trưởng thành, đường học vấn càng lên cao, trong lớp học càng có nhiều sự cạnh tranh về tài năng. Ai cũng phải nhận ra được một sự tranh đua ngầm giữa các tài năng tương đương.
Nếu có những cuộc thi được tổ chức trong khuôn viên nhà trường, hoặc ngoài cộng đồng, sự tranh đua đó càng lộ hẳn ra. Tùy theo tầm mức quan trọng của cuộc thi mà sự tranh đua sẽ trở nên quyết liệt nhiều hay ít; và cũng từ đó, manh nha tư tưởng "THÙ ĐỊCH" đối với kẻ thất bại trong cuộc thi.
Con đường Hoạn Lộ luôn đầy rẫy những chông gai, những trắc trở. Chiếc ghế Vinh Quang chỉ có một, nhưng cuộc chạy đua thì có quá nhiều người tham dự. Nhìn lại chung quanh mình, thấy ai cũng là KẺ THÙ của mình. Có thắng được kẻ thù, mình mới có thể trở thành kẻ chiến thắng.
Vẫn chưa hết, dù rằng mình là kẻ chiến thắng, đang nắm giữ địa vị đó, nhưng chung quanh mình có biết bao nhiêu người đang chực chờ, rình rập, chỉ một chút sơ hở là địa vị không còn, là quyền uy cũng biến mất. Một nỗi sợ hãi, lo âu bao trùm lấy tâm tư mình, khiến cho tâm trí không lúc nào yên ổn, cuộc sống thật khó lòng thảnh thơi, như đang ngồi trên than hồng vậy!
Rồi thì những giao tế hằng ngày trong cuộc sống cũng đưa đến những cạnh tranh. Để loại bỏ những cạnh tranh, bắt buộc phải dùng đến thủ đoạn để triệt hạ đối phương; mất mối lợi, BẠN tức khắc biến thành THÙ.
Hỡi Vong Linh,
Vong Linh đã thấy chưa, từ một đứa bé thơ còn non nớt bước chân vào ngưỡng cửa nhà trường, cho đến khi trưởng thành, trải qua bao nhiêu giai đoạn của cuộc đời, Thân Xác của Vong Linh đã đối diện với biết bao nhiêu "KẺ THÙ", và ngay cả khi chân mỏi gối chùn, không còn cất nhắc nổi, cũng vẫn có vô số kẻ thù vây quanh, đó chính là những bệnh tật, hằng ngày bủa vây, quấn chặt cái thân xác, khiến cho cuộc đời trở nên vô vị, ảm đạm một màu đen.
Hãy thử lần lượt phân tích những KẺ THÙ của Thân Xác của Vong Linh.
Khi còn bé thơ, hằng ngày được ấp ủ trong vòng tay thương yêu của Mẹ, của Cha, muốn gì được nấy, nay tự nhiên đối diện với những người xa lạ, những kẻ này cũng cùng một cỡ với mình, nhưng sao lại tỏ ra lớn lối, bắt nạt mình? Thế là "tự ái" nổi lên, đâm ra giận những người bạn nhỏ "thiếu nhã nhặn" này và xem họ là KẺ THÙ, không thèm chơi với họ.
Tất cả những sự ganh đua nào cũng đều bắt nguồn từ một lòng Tham, từ một Tự Ái khá cao, quyết đem Thắng Lợi về cho mình để mọi người biết đến mình mà ngưỡng mộ. Có những kẻ tham ngầm, giỏi che đậy, cũng có người tham lộ liễu. Nói chung, đã để chữ Tham vào sự ganh đua thì đương nhiên KẺ THÙ ĐỊCH phải được đề cập tới, vì đó là những người cạnh tranh với mình, cùng thi thố với mình, muốn đoạt chiến thắng, bắt buộc phải triệt hạ đối phương.
Sự sợ hãi về việc quyền uy, địa vị của mình có thể bị người khác chiếm đoạt, cũng tạo cho mình một ấn tượng là chung quanh mình có lắm KẺ THÙ ĐỊCH, lúc nào cũng chực chờ để cướp đoạt cái địa vị mà mình đang nắm giữ.
Ai bảo rằng trong giao tế hằng ngày mình không có KẺ THÙ? Nếu mình không là kẻ thù của Người thì Người cũng sẽ là kẻ thù của mình. Sự Ganh Tị, sự Đố Kỵ, sự Thị Phi, sự Tham Lam, sự Thù Hận sẽ khiến cho con Người trở thành kẻ thù địch lẫn nhau.
Thương trường và chính trường là 2 nơi mà người ta đấu đá nhau nhiều nhất, có thể nói, nơi đâu cũng thấy kẻ thù, lòng tham của con người không đáy, còn lợi lạc là còn bạn hữu, mất mối lợi rồi thì bạn trở thành thù.
Có thể nói, trên bất cứ lãnh vực nào, từ khoa học kỹ thuật cho đến nhân văn, thậm chí những ngành nghề mang tính cách nhân ái như y khoa, dược khoa cũng vẫn không thiếu bóng dáng của những kẻ mang danh là THÙ ĐỊCH.
Người ta thù nhau vì ganh tị địa vị lẫn nhau, vì ganh đua nhau về kiến thức, vì tranh giành nhau một chức tước, một quyền bính…
Hỡi Vong Linh,
Những kẻ thù địch được đề cập đến từ nãy giờ là những con người bằng xương bằng thịt, có thể tiếp xúc được, ôm ấp, sờ mó lẫn thương yêu. Có những kẻ mà Thân Xác của Vong Linh đã đặt trọn niềm tin tuyệt đối, đặt trọn lòng thương yêu, nhưng hỡi ôi, những kẻ đó có đôi khi lại trở thành những kẻ thù không đội trời chung với mình, khiến cho mình ngậm đắng nuốt cay rất nhiều.
Bên cạnh những kẻ thù bằng xương bằng thịt đó, còn có biết bao nhiêu kẻ thù khác mà mình không thể nào tiếp cận được, chúng cứ bám chặt lấy mình, không thể nào rứt ra được. Phải gọi đó là những kẻ "Nội Thù". Chúng còn đáng ngại hơn những kẻ thù trực diện với mình vì chúng có thể lấy mạng sống của mình, làm cho mình thân bại danh liệt, làm cho mình tán gia bại sản mà mình không một chút đề phòng...
Nhìn lại đoạn đường mà Thân Xác của Vong Linh vừa mới đi qua; trên đoạn đường đó, cứ mỗi một kẻ thù mà Thân Xác gặp gỡ, đều thể hiện một Tánh Xấu.
Một TỰ ÁI quá cao, quá được tôn trọng và bảo vệ sẽ là đầu mối đưa đến sự thù nghịch, đôi khi trở nên trầm trọng, vô phương giải quyết.
Lòng THAM không đáy khiến cho lợi lạc của cả đôi bên không cân xứng, không được giải quyết thỏa đáng, đương nhiên sự bất hòa sẽ khơi màu cho sự thù hằn giữa đôi bên, lắm lúc đi đến đổ máu, tổn mạng như chơi.
Vì quá Tham Lam cho nên không ngần ngại cướp giựt, chiếm đoạt tài sản của người, thậm chí hạnh phúc của người, như vậy là tự mình đã bủa tấm lưới thù nghịch lên người của mình, và sẵn sàng để cho kẻ bị chiếm đoạt phản công lên người mình bất cứ lúc nào.
Vì Tham danh, tham lợi, tham quyền tước, tham tiền tài, vật chất mà Thân Xác của Vong Linh bắt buộc phải sử dụng những mánh khóe, những mưu mô để đối phó với những kẻ thù lúc nào cũng chực chờ để chiếm đoạt.
Khi Thân Xác của Vong Linh sử dụng những trò lừa đảo, lường gạt, cướp giựt, gian dối... thì đương nhiên sẽ phải đón nhận rất nhiều kẻ thù sẵn sàng để phản công.
Càng lộ ra nhiều Tánh Xấu, càng làm những hành vi quấy trá từ những tánh xấu của mình thì chắc chắn rằng cuộc sống của mình khó lòng an ổn được, vì mình sẽ phải luôn luôn đối diện với những KẺ THÙ lúc nào cũng tìm cách đánh phá mình, trả thù mình, triệt tiêu mình.
Vong Linh đừng quên một điều là, KẺ THÙ không ở nơi xa, mà chính xác là ở kề cận bên mình đó!!
Nếu Thân Xác của Vong Linh luôn luôn sống với tinh thần hòa nhã, vị tha, không tranh đua hơn thiệt, biết chia sẻ, biết nhường nhịn, biết giúp đỡ lẫn nhau, không quá xem nặng phần vật chất, Thân Xác sẽ rất khó gặp Kẻ Thù. Nếu có phải đối đầu với kẻ Ganh Tị với mình, thì chính những tánh tốt mà mình có được sẽ hóa giải hết tất cả những khó khăn, những gút mắt mà kẻ ganh tị mang đến cho mình.
Vong Linh hãy luôn luôn ghi nhớ rằng, "Kẻ thù lớn nhất của Đời Người là Chính Mình".
Càng có nhiều tánh xấu, mình càng có nhiều kẻ thù.
Biết từ bỏ những tánh xấu, mình sẽ loại được những kẻ thù luôn rình rập, đánh phá mình.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 39:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Vong Linh có biết rằng sự tự ti dẫn đến một tình huống vô cùng là bi đát, và đôi khi đưa đến cái chết chỉ trong một cái búng tay.
Vong Linh hãy chiêm nghiệm những tình huống như sau đây:
Tình huống thứ nhất:
Cô gái nhỏ có gương mặt thật sáng với đôi mắt to, với vầng trán thông minh; nhưng tiếc thay, mỗi khi cô cười, cái miệng nhỏ nhắn, xinh xinh lại méo trệt qua một bên, khiến cho toàn thể gương mặt như chảy xuống và tối sầm lại. Cô mang khuyết tật này từ khi mới sanh ra đời.
Ngày cô còn nhỏ, cô chớ hề quan tâm đến điều bất bình thường trên gương mặt của mình; trong vòng tay thương yêu của Mẹ của Cha, mọi thứ đều ổn thỏa.
Ngày đầu tiên cắp sách đến trường, cô bé là đối tượng cho sự châm chọc của các bạn nhỏ. Các bạn chọc cho cô bé cười, và sau đó thì đồng loạt cười rộ lên một cách khoái trá.
Cô bé nhanh chóng nhận ra được là các bạn nhỏ đang chọc phá mình, cô òa khóc nức nở, và kể từ hôm đó, gần như cô bé chẳng hề cười, gương mặt luôn phảng phất nét buồn; những giờ ra chơi, cô bé thui thủi một mình, tìm một nơi kín đáo, len lén đưa mắt nhìn các bạn nô đùa, cười giỡn.
Cô bé cũng rất muốn chạy ra chơi cùng các bạn, nhưng hình ảnh của những bộ mặt cười nhạo báng, chế giễu, khiến cô bé chùn chân và bỏ qua ý định.
Thời gian trôi qua rất nhanh, chẳng mấy chốc, cô bé đã trở thành một thiếu nữ với trình độ đại học, cô là sinh viên xuất sắc của trường, tốt nghiệp với hạng tối ưu và được việc làm ngay khi tốt nghiệp.
Theo lẽ bình thường, cô phải là một cô gái may mắn nhất, hạnh phúc nhất, vừa có học vị, vừa có công việc làm thích hợp, nhưng ngược lại, trên gương mặt cô lúc nào cũng phảng phất một nét buồn sâu kín.
Cô sống thật khép kín, gần như không có bạn bè, cô mang mặc cảm tự ti rất cao về gương mặt thiếu nét khả ái của mình, do đó cô không giao tiếp, không qua lại với ai, cô sống thui thủi với nỗi buồn trĩu nặng tâm tư, không bộc bạch, không trải lòng tâm sự được với ai cả.
Rồi một ngày, người ta không còn thấy cô đâu nữa, cô đã xa lánh cõi đời đầy thị phi, lắm tị hiềm và tìm sự bình an trong tâm hồn nơi cửa Phật.
Tình huống thứ hai:
Người chiến binh trở về từ vùng chiến trận, đầu óc vẫn chưa phai mờ với cảnh thịt đỗ, máu rơi, thây người ngã gục. Bản thân anh cũng đã để lại nơi vùng đất còn nức mùi thuốc súng, toàn thể tứ chi anh. Giờ đây, anh chỉ còn là một khúc con người, không hơn không kém!
Anh được đặc biệt chăm sóc. Những tiến bộ y khoa ngày nay giúp cho anh có được đôi tay, đôi chân giả, tuy rằng không hoàn hảo như đồ thật, nhưng cũng đã giúp anh rất nhiều để giải quyết những công việc cần đến đôi tay, đôi chân.
Đời sống vật chất của anh cũng khá là đầy đủ do sự bảo trợ của chánh quyền, tuy nhiên, tinh thần anh càng ngày càng sa sút. Anh hồi tưởng lại cuộc sống của mình trong thời gian qua, anh năng động biết bao nhiêu, anh giúp đỡ cho gia đình trong mọi khía cạnh, anh đã góp phần vào việc mang lại hạnh phúc cho vợ con anh, anh đã hết lòng với đồng đội, anh đã ra sức chống giặc để cứu lấy quê hương... Ngày giờ này, anh chỉ còn là một khúc thịt thừa, không hơn không kém, hoàn toàn vô dụng, không làm được việc gì cả, chỉ đem lại sự cực nhọc cho gia đình, cho vợ con mà thôi.
Vợ anh còn quá trẻ, lại là một người đàn bà có nhan sắc, cô ấy không thể chôn vùi cuộc đời trong bốn bức vách tường để chăm sóc một người chồng tật nguyền như anh được. Con anh còn quá nhỏ, anh thì hoàn toàn bất lực trong việc nuôi dưỡng và dạy dỗ con thơ, vợ con anh cần một nơi nương tựa khác, vững vàng hơn để tiếp tục sinh tồn.
Ngày qua ngày, mặc cảm tự ti càng dâng trào, anh như người mất phương hướng, lạc lõng trong bóng đêm dày đặc của cuộc đời. Một buổi sáng nọ, vợ anh nhìn thấy anh nằm trên sàn nhà, bên cạnh là hộp thuốc giảm đau không còn một viên nào sót lại.
Anh đã vĩnh viễn ra đi, tìm đến cái chết để hoàn toàn quên đi những bức rức, những mặc cảm, những vằn vật về sự bất hạnh của cuộc đời mình.
Tình huống thứ ba:
Cậu thiếu niên 13 tuổi nghèo hèn, rách rưới, sống lang thang vất vưởng, nhờ vào sự bố thí của người qua đường.
Thấy cậu yếu đuối, đám ăn xin trên đường phố thường hay bắt nạt và sai biểu, nếu cưỡng lại, cậu sẽ bị những trận đòn "hội đồng" vô cùng là tàn nhẫn. Cậu cắn răng chịu đựng và chỉ biết than thầm, khóc thầm mà thôi.
Những đêm trời trở lạnh, co ro không ngủ được dưới gầm cầu bốc mùi cống rãnh, cậu nhớ Cha nhớ Mẹ, nhớ lại cái đêm kinh hoàng, cậu làm sao quên được chiếc xe vận tải to sầm đã nghiến nát chiếc xe chở cậu cùng cha mẹ, trên đường trở về thành phố sau chuyến đi nghỉ mát cuối tuần.
Cậu may mắn bị văng ra ngoài cách chiếc xe khá xa và còn sống sót, chỉ bị thương tích nhẹ mà thôi. Cha Mẹ cậu thì tắt thở ngay sau đó.
Cậu chỉ tiếc là tại sao mình lại không được chết cùng lúc với cha mẹ, ngày giờ này sự sống không có chút ý nghĩa nào đối với cậu cả. Cậu chỉ là một đứa bé nghèo hèn, đói rách, ăn mày từng hột cơm thừa, lớn lên từ đường phố, hằng ngày chịu nhọc nhằn, xỉ vả, đánh đập từ những con người lăn lộn trên đường phố.
Cậu tức lắm, bọn họ cũng xuất thân từ đường phố y như cậu, nhưng tại sao lại bắt cậu phải phục dịch cho họ, đã vậy mà còn đánh đập, hà hiếp cậu nữa?
Cái mặc cảm là một con người yếu đuối, trói gà không chặt khiến cho cậu bực tức, cậu đâm ra giận mình, hận mình sao quá yếu ớt. Nhớ lại những lời lẽ chửi bới của cái đám ăn xin, chúng miệt thị, chúng nặng nhẹ cậu, chúng còn dám xúc phạm đến cha mẹ cậu nữa, chúng gọi cả nhà cậu là những cọng bún thiu, không làm gì nên chuyện cả, cho nên chết là phải!
TRẢ THÙ! Nhất định phải trả thù! Cậu phải cho chúng một bài học để chúng không còn khinh thường cậu nữa. Cậu phải thoát ra khỏi cái mặc cảm nhu nhược, yếu đuối để chứng minh cho bọn chúng thấy rằng cậu cũng mạnh mẽ không thua bọn chúng đâu.
Nói là làm! Một ngày nọ, trong lúc cậu vừa bị chửi mắng, vừa bị đánh đập, tức nước vỡ bờ, cậu rút con dao lận trong người ra, giữa lúc không ai có thể ngờ được hành vi của một cậu bé ốm yếu, gầy gò, cậu đã đâm lút cán dao vào bụng của tên ăn mày đàn anh đang đấm đá túi bụi lên người của cậu. Tên này ngã ra tắt thở trước những cặp mắt tròn xoe và những cái miệng há hốc nhưng không thốt được nên lời.
Cậu bé gầy còm ốm yếu giờ đã là anh hùng, nhưng phải chôn chặt cuộc đời mình sau những song sắt của nhà tù!!
Hỡi Vong Linh,
Qua những tình huống vừa kể trên, Vong Linh có nhận ra được chăng sự tự ti vô cùng là tai hại? Nó làm cho mỗi con người mang một mặc cảm khác nhau tùy vào cái khiếm khuyết mà người đó sở hữu.
Chính cái tự ti đã giết lần mòn cái sinh khí đang luân lưu trong cơ thể con người, làm băng hoại chí phấn đấu, bầu nhiệt huyết, khiến cho con người không còn có ý muốn vùng lên, muốn thi thố tài năng, do ở sự e dè, sợ sệt và đầy mặc cảm thấp hèn, nhỏ nhoi, kém cỏi hay xấu xa.
Sự tự ti làm khơi dậy tự ái con người, đầu tiên thì đưa đến việc hận bản thân mình, lần hồi dẫn đến việc hận Người, hận Đời, và cuối cùng đưa đến cái kết thường là không tốt đẹp.
Người tự ti sống không lành mạnh, đầu óc luôn quay cuồng, tâm không bình, ý không định, lúc nào cũng suy nghĩ mông lung, hay than thân trách phận, oán trách Trời cao mang điều bất hạnh đến cho mình.
Họ đã quên đi rằng, những gì xảy tới cho cuộc đời của họ, dù một việc nhỏ chỉ bằng hột cát, cũng vẫn không lọt khỏi quỷ đạo của Nhân và Quả. Khi quả đã rơi vào túi của họ rồi thì họ chỉ có NHẬN chớ không có quyền từ chối.
Mặc cảm tự ti là kết quả của một lỗi lầm thiếu suy nghĩ, thiếu đắn đo từ trong kiếp quá khứ, và đôi khi cũng từ ngay tại hiện kiếp nữa. Có đôi khi lỗi lầm chưa đủ lớn mạnh để kết thành Nghiệp Lực, nhưng những bài học nghiệp lực cứ đeo đẳng Thần Thức từ kiếp này sang kiếp khác, cho đến bao giờ mà Thân Xác của Thần Thức nhận chân ra được nghiệp chướng mình đã tạo, oan trái mình đã buộc thì cái mặc cảm tự ti cũng nhẹ xuống được đôi phần.
Để giải trừ nghiệp chướng thì như Vong Linh đã thấu hiểu, không có gì khác hơn là chân thành hành trì mỗi ngày nghi thức Sám Hối - Trì Chú - Niệm Phật. Ngoài ra, đem tâm thành giùi mài, trau chuốt cho thật nhiều tánh tốt để hạt giống Bồ Đề được gieo rắc đầy trong Tâm Thức.
Hành Thiện thật nhiều để tích lũy nhiều Phước Báu, con người sẽ cảm thấy mình cao thượng hơn, sống hữu ích hơn, tích cực hơn; mặc cảm tự ti lần lần trở nên mờ nhạt, thay vào đó là một sự mạnh mẽ, tràn đầy sinh lực của một tâm hồn trong sáng, luôn hướng Thiện và hành Thiện.
Con người không ai là hoàn hảo cả, có kẻ tốt mặt này nhưng lại xấu mặt kia; có điểm này đẹp, nhưng điểm khác lại không được như ý; tài năng trong lãnh vực này thì xuất sắc, bước sang lãnh vực khác thì mù tịt. Do đó, hãy cố gắng sống sao cho xứng đáng với ý nghĩa làm Người, đừng để những mặc cảm tự ti làm tiêu mòn dần năng lực sống của mình.
Vong Linh hãy nhớ kỹ điều này: trở lại kiếp Người là để học hỏi, để trui rèn, để chịu đựng sự tấn công của Nghiệp Lực. Dù biết rằng mình phải trả Nghiệp, nhưng, TRẢ chớ không phải TẠO thêm. Càng tạo thêm nhiều Nghiệp Chướng ở hiện tại, sẽ càng phải đối phó với nhiều cảnh huống, nhiều khó khăn, nhiều trắc trở ở kiếp Vị Lai.
Cái vòng lẩn quẩn cứ trở đi trở lại biết đến bao giờ mới chấm dứt? Nó không thể tự chấm dứt được, mà chỉ có Thân Xác của Vong Linh mới có thể làm cho nó chấm dứt được mà thôi.
Vong Linh hãy rán ghi nhớ lời Pháp hôm nay, và đừng bao giờ để những mặc cảm Tự Ti biến thành những bi kịch đáng thương nhất, ảnh hưởng đến cuộc đời mới của Thân Xác Mới của Vong Linh.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 40:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Trong cuộc đời ở kiếp mới vừa qua, Thân Xác của Vong Linh đã có từng bao giờ đánh mất bản thân của mình hay chưa?
Mà bản thân của mình chính là cái gì? Đó chính là cái Tư Cách Người mà Thân Xác của Vong Linh đã cưu mang trong suốt thời gian hiện diện nơi cõi Ta Bà.
Động lực nào khiến cho Thân Xác của Vong Linh làm mất đi cái tư cách Người của mình?
Vong Linh đã được giải thích một cách tận tường về sự Độc Hại của Tham - Sân - Si.
Những ngày còn trên dương thế, vì thiếu sự chỉ dạy, sự dẫn dắt, Thân Xác đã hành động theo cái Dục rất là nhiều. Khi lòng Dục nổi lên thì cái Muốn lộ ra. Muốn là đầu mối dẫn đến sự Tham Lam.
Muốn nhiều thứ nhưng lại không có đủ, hoặc hoàn toàn không có phương tiện tài chánh nào để thỏa mãn cái muốn của mình, tức khắc lòng tham sẽ nổi lên, Ý chiếm đoạt đã khơi mào, cộng thêm cái Tâm không lành, tăng cường cái Tánh bất lương, thế là tương kế tựu kế, cũng có khi dùng luôn cả thủ đoạn gian manh để chiếm đoạt những gì mà mình muốn, bất cần nghĩ đến hậu quả của việc mình làm.
Những vụ lừa đảo cướp giựt, chiếm đoạt của người đã gây nên những cảnh dỡ khóc dỡ cười, những tình huống vô cùng là thương tâm cho nạn nhân bị cướp giựt.
Kẻ gây thảm họa cứ nhởn nhởn nhơ nhơ, ngày qua ngày cứ tiếp tục cướp giựt, lừa đảo, xem như đó là một kế sinh nhai của họ, họ đã thực sự đánh mất lương tri, không kể gì đến cái tư cách Người của mình, thẳng tay cướp của Đồng Loại, và trong lúc giằng co, nếu có xảy ra án mạng gây nên thương tích hay làm thiệt mạng ai đó, họ vẫn thản nhiên trốn chạy để tìm sự an toàn.
Kẻ giàu tiền lắm bạc biểu lộ cái tham của mình một cách kín đáo hơn, tinh vi hơn, cho đến nỗi, đôi khi nạn nhân không nhận ra được kẻ lừa đảo, cướp giựt tài sản của mình lại chính là người quen biết, thân thiện với mình.
Chính trị gia từ hạng thấp đến hạng cao, nguyên thủ quốc gia từ nước nhỏ đến nước lớn, ai cũng có thể vì một chữ Tham mà đánh mất tư cách Người của mình.
Tham làm cho con người thất điên bát đảo, mất cả lương tri, tánh Sân còn độc hại gấp bội lần! Tự ái càng lên cao, hỏa Sân càng bốc lửa. Với kỹ thuật cao ngày nay, súng ống, đạn dược, dao búa… hay bất cứ thứ gì gọi là Vũ Khí... cũng đều tối tân cả, chỉ một cái vung tay là thây người ngã gục.
Con người ngày nay lại rất dễ giận dễ hờn, nhưng lại lười tư duy; nghĩ sao thì làm vậy, không cần biết hậu quả sẽ tai hại như thế nào?. Khi lửa Sân đang bốc lên ngùn ngụt mà phương tiện lại có sẵn trong tay thì chuyện gì sẽ xảy ra? Chắc chắn rằng cái Nhân Tính của con người cũng bị chìm sâu theo cái nhát dao hay viên đạn vừa ra khỏi nòng.
Đôi khi tập họp theo đám đông, phô trương thanh thế, biểu dương sức mạnh, hò hét, đánh đập người vô cớ, phá hoại tài sản người, hành động thiếu suy nghĩ, không còn mang một chút gì tư cách của một con người cả.
Thế giới văn minh tạo ra lắm trò chơi khiến con người say đắm, cứ chìm vào trong hết cái mê này lại đến cái mê kia. Con người càng ngày càng trở nên Si mà không nhận thức được điều đó. Dần dần đầu óc không còn minh mẫn nữa, sự tinh nhuệ cũng mất đi, trí tuệ lu dần, chỉ biết đắm chìm trong cơn mê của mình. Hàng hàng lớp lớp cuộc vui, không mê rất uổng, càng mê, càng say, càng xa rời cái thực chất NGƯỜI của mình.
Thật đáng thương thay, một khi mình đã xa rời cái thực chất Người thì chính mình lại tiến lần đến cái THÚ TÁNH, tức là chỉ biết có mỗi một việc là thỏa mãn mà thôi!
Hỡi Vong Linh,
Vong Linh đã biết rằng, không phải dễ để trở lại làm Người. Nếu không hội đủ những nhân duyên thì vẫn phải là chờ đợi….chờ đợi. Một ngày còn ở cõi Âm thì vẫn là sầu khổ. Khi đã là NGƯỜI rồi thì tại sao không cố mà giữ lấy cái thực chất Người của mình? Cứ mãi lao đầu vào ẢO TƯỞNG.
Tham - Sân - Si cùng với tất cả những dây tơ rễ má của chúng, nào là dối trá - lọc lừa - trộm cướp - giết người - tà dâm - lừa đảo - lường gạt - sang đoạt..v..v..đã gieo vào đầu óc của Thân Xác của Vong Linh những tư tưởng chiếm đoạt để thỏa mãn cái MUỐN của mình.
Muốn quá mà không có được thì đành phải làm liều cướp giựt thôi! Chiều theo dục vọng, thỏa mãn dục vọng, nhưng sau đó lại chôn vùi cái tư cách Người của mình, chẳng khác gì đem viên kim cương đánh đổi nắm đất bùn. Thật là cả một sự sai lầm!!
Hãy nhớ rằng, một khi mình đã đánh mất bản thân mình rồi, tay mình đã nhúng chàm rồi thì liệu rằng mình còn có cơ hội, còn có chút may mắn nào để tìm lại chính mình nữa hay không? Luật Pháp của Người Đời chắc chắn sẽ không để cho mình yên, Vòng Nghiệp Lực đương nhiên khép kín, mình đã rơi trọn vào trong quỷ đạo của Luật Nhân Quả, chắc chắn rằng kiếp vị lai sẽ không có gì khởi sắc mà trái lại hứa hẹn nhiều mưa giông bão táp trong cuộc đời.
Vong Linh hãy khắc cốt ghi tâm triệt tiêu cho hết những tánh xấu của mình, và cố gắng giùi mài cho thật nhiều tánh tốt. Nếu trong kiếp mới vừa qua mình đã phạm phải quá nhiều sai lầm, thì đây là cơ hội ngàn vàng giúp cho Vong Linh tu tập, chỉnh sửa lại Tâm-Ý-Tánh của mình, để khi trở lại cõi Ta Bà, Thân Xác mới của Vong Linh sẽ sống đúng với tư cách Người của mình, nhờ đó mà cơ hội thăng hoa mới có thể thành tựu được.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 41:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Ngày còn tại thế, sau mỗi lần thất bại về một điều gì đó, Thân Xác của Vong Linh đã phản ứng ra làm sao?
Hãy đơn cử một vài thí dụ sau đây:
-
Đứa bé thơ trượt chân té ngã, nằm đó la khóc cho tới khi mẹ cha hay một người nào đó đến đỡ dậy, đứa bé ngừng khóc và nhoẻn miệng cười.
-
Cô học trò mất cả một ngày trời để giải xong bài toán khó; đến khi thầy giáo trả lại bài thì hỡi ơi, cô vì sơ ý nên đã cộng sai một con số, thế là kết quả bị sai lệch đi khá nhiều, dù rằng cách giải bài toán hoàn toàn đúng. Bảng xếp hạng cho tháng đó, cô bị sụt gần 10 hạng và nhận lấy nhiều lời trách móc từ cha mẹ của cô.
-
Vì không nghiên cứu đến nơi đến chốn nên kết quả thí nghiệm y khoa hoàn toàn thất bại, khiến cho công trình của vị bác sĩ này phải đổ sông đổ biển. Bao nhiêu tiền bạc đổ vào việc nghiên cứu vẫn không đủ để trang trải, bên cạnh đó, vị này còn phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp khác nữa từ ở cơ quan y tế.
- Trong một cuộc thi leo núi, người lực sĩ bị trợt chân và té ngã ở một độ cao khi gần tới đích. Mọi người nghĩ rằng anh ta không thể nào sống sót được khi bị rơi từ ở một độ cao cả ngàn thước, nhưng, phép lạ đã xảy ra, anh bị văng ra khỏi triền núi và rơi đúng vào cái chảng ba của một cây đại thụ. Mạng sống của anh được giữ lại, nhưng anh bị thương tật, suốt đời phải ngồi trên xe lăn vì xương sống bị gãy lìa.
Anh đã trải qua nhiều cuộc giải phẫu để chỉnh lại cột sống, và mất rất nhiều thời gian cho việc luyện tập giúp cho các bắp thịt hoạt động điều hòa trở lại, không còn tê cứng nữa.
Anh là một người thích leo núi, leo núi với tất cả sự đam mê. Tả sao cho hết nỗi hân hoan của anh, ánh mắt rạng ngời, rực lửa của anh, mỗi khi anh chinh phục được một ngọn núi nào.
Ngày giờ này ngồi thu mình trong chiếc xe lăn, nhìn khoảng trời rộng bao la, đưa mắt về một nơi xa thẳm, anh bồi hồi nhớ lại từng ngọn núi mà anh đã leo, từng đỉnh núi mà anh đã chinh phục, tim anh rộn ràng như thúc giục anh hãy đứng lên, đứng lên làm một cái gì đó để thỏa niềm đam mê của mình, để thắp sáng lại niềm tin là anh có thể khắc phục được khó khăn để tiến đến thành công.
Hỡi Vong Linh,
Qua thí dụ thứ nhất, Vong Linh nghĩ như thế nào nếu đứa bé cố gắng đứng dậy, không khóc và tiếp tục đi? Chắc chắn rằng đứa bé sẽ nhận được nhiều lời khen ngợi từ những người thân trong gia đình, những lời cổ võ, khích lệ của mẹ cha, và điều đáng nói là chính đứa bé đã gây tạo cho mình một niềm tin vững chắc là mình có thể đứng trên đôi chân của mình, cái té ngã không thể là rào cản làm ngăn trở những bước tiến tới của đôi chân.
Cô học trò trong thí dụ thứ 2, làm việc thiếu sự để tâm, không kiểm soát lại những gì mình đã làm, mang cái tánh cẩu thả. Tuy nhiên, nếu cô là một người biết phục thiện, sau sự thất bại của mình, cô làm việc chăm chỉ hơn, cẩn thận hơn, tỉ mỉ hơn, để ý nhiều hơn trong công việc, chắc chắn cô sẽ được liệt vào danh sách những học sinh giỏi của lớp, và biết đâu, với sự cố gắng không ngừng, việc cô trở thành học sinh xuất sắc của toàn trường là điều không lấy làm ngạc nhiên cho lắm.
Thí dụ thứ 3 nói về những công trình nghiên cứu; thông thường, những công trình nghiên cứu, nhất là nghiên cứu về y khoa đòi hỏi một sự nhẫn nại, dò dẫm từng bước một. Đôi khi phải lâm sàng trị bệnh, phải theo dõi từng triệu chứng, từng diễn biến đột phá của vi khuẩn, từng sự tiến triển của cách thức trị bệnh để rút tỉa một kết luận sau cùng.
Rất khó để đi đến một kết quả tốt đẹp, nhanh chóng và thuận lợi ở một vài nghiên cứu đầu tiên. Do đó, nếu buổi ban đầu đã vội vàng chán nản thì quyết định bỏ cuộc là lẽ đương nhiên.
Một cuộc nghiên cứu, nhất là về thuốc chữa trị một căn bệnh nào đó đôi lúc phải mất hằng mấy năm trời, đôi khi còn hơn thế nữa. Hết thử nghiệm trên loài vật nhỏ đến thử nghiệm trên loài vật lớn, rồi tới thử nghiệm trên Người, qua nhiều tầng lớp, nhiều số đông người để mới có được một kết quả cuối cùng chính xác, trước khi đưa vào sản xuất hằng loạt tung ra trên thị trường.
Thất Bại là MẸ của Thành Công. Sau mỗi lần thất bại là sự ghi nhận của nhiều trải nghiệm, nhiều học hỏi, nhiều bài học được rút ra và con đường tiến đến sự thành công cũng được dần dần rút ngắn lại.
Sự thành công là món quà vô cùng có ý nghĩa và vô giá, dành tặng cho những người thật sự hiểu được giá trị của 2 chữ Nhẫn Nại và Cần Cù, những người không sợ chông gai, dẫm lên tất cả những rào cản, mọi trở ngại, mọi thử thách để tiến đến sự Thành Công.
Anh chàng thích leo núi trong thí dụ thứ 4 là một thông điệp cho mọi người thấy rằng, ngã quỵ chưa phải là yếu đuối, là chấm dứt. Sự thất bại của anh không có nghĩa là anh bất tài.
Dù bị thúc thủ trong chiếc xe lăn, anh vẫn mơ ước một ngày nào đó, anh có thể đứng dậy dưới mọi hình thức để anh thắp sáng lại niềm tin làm cho niềm đam mê của anh sống lại. Anh nhất định sẽ biến ước mơ thành hiện thực và sự khó khăn sẽ không thể nào ngăn cản bước chân anh trên con đường tiến đến sự thành công.
Bài pháp hôm nay giúp cho Vong Linh nhận thức được rằng, ngã ngựa, ngã quỵ hay ngã bất cứ cái gì... cũng vẫn không phải là điều quan trọng. Điều cốt yếu là mình có muốn đứng dậy hay không? Có muốn vươn lên sau đó hay không?
Những nỗi sợ hãi sẽ khiến cho mình chùn bước, không muốn vùng lên. Sợ cái gì? Tùy theo mình bị vấp ngã vì cái gì mà sự sợ hãi sẽ phản ảnh điều đó.
-
Làm ăn thua lỗ, sự sợ hãi sẽ có liên quan đến chữ Tiền
-
Tranh danh đoạt lợi không thành công, sợ người ta trả thù
-
Thất bại trong Tình Trường, sợ không dám yêu ai nữa
-
Thất bại trong một cuộc thi nào đó, sợ bị thua nên không dám tiếp tục thi nữa
-
Một lần ngã ngựa, đau quá, sợ không dám cưỡi ngựa nữa ...v...v...
Muốn vùng lên, bắt buộc phải khắc phục sự sợ hãi, vì đó chính là rào cản khiến cho mình không dám tiến tới. Người Đời thường cho rằng, một lần thất bại không khác gì con chim bị ná, nhìn thấy cây cong cũng đủ sợ rồi! Nếu nghĩ suy như vậy thì suốt đời sẽ trở thành kẻ ù lì, không bao giờ dám làm bất kỳ cái gì cả, cứ ngồi há miệng chờ sung, sung rụng được trái nào thì hay trái nấy, mà phải rụng vào đúng miệng của mình thì mới được, rụng rớt ra ngoài thì cũng chịu đói mà thôi.
Trên Đời không có ai là hoàn hảo cả. Ngày hôm nay tôi không thành công, ngày mai tôi không có gì thay đổi hết, ngày thứ 3 tôi vẫn còn dậm chân tại chỗ, nhưng ngày thứ tư tôi đã nhìn được ánh sáng ở cuối đường hầm.
Đó không phải là phép lạ, mà đó chính là toàn bộ sức sống, nghị lực mà tôi đã dồn nén từ nhiều ngày qua. Bây giờ nó đã đủ mạnh để bùng lên, để có thể vực tôi đứng dậy và đi tiếp hay khởi động lại con đường tôi đang bỏ dở.
Con người hưởng thụ biết bao nhiêu phát minh, bao nhiêu sáng kiến của Thế Giới Văn Minh. Đó chính là tim óc, là mồ hôi nước mắt, là xương máu của biết bao nhiêu người đã từng ngã gục, từng bị nhiều thương tích, từng chịu nỗi ê chề, cay đắng của những thất bại liên tục để tạo nên sự thành công cho ngày hôm nay.
Họ đã can đảm vùng lên, vươn mình đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã, rút tỉa kinh nghiệm và làm lại từ đầu. Đó là những con người đáng khâm phục với nhiều đức tính cần phải được ghi nhận và học hỏi.
Vong Linh hãy chiêm nghiệm cho thật kỹ lời Pháp hôm nay, nó vẫn là hành trang quý giá giúp cho Thân Xác Mới của Vong Linh ứng xử tốt trong tất cả những hành vi xảy đến trong cuộc đời mới của Vong Linh.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 42:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Nỗi đớn đau tột cùng của một con người chính là gì? Đó chính là cái chết!!
Khi một con người không còn một chút hy vọng nào ở một tương lai gần lẫn xa, trí tuệ như lu mờ, bao nhiêu chức năng trong cơ thể hình như ngưng đọng lại, bộ óc không còn hoạt động một cách linh hoạt và tỉnh táo, những hành động và cử chỉ có tính cách máy móc, con người đó đã rơi vào trạng thái TUYỆT VỌNG.
Có người vì tuyệt vọng nên đi tìm đến cái chết. Họ cho rằng chỉ có cái chết mới giúp cho họ bước ra khỏi vũng Tuyệt Vọng mà thôi.
Ngày giờ này, dưới hình thái của một Vong Linh, Vong Linh có nghĩ rằng cái chết có thể nào giúp cho một người bước ra khỏi vũng Tuyệt Vọng hay không?
Hãy trở về với Luật Nhân Quả!
Để đi đến chỗ tuyệt vọng, con người bắt buộc phải trải qua nhiều nỗi thương tâm. Những nỗi thương tâm từ đâu mà có? Đó chính là kết quả của những nhân hạt không được lựa chọn. Trong quá khứ, con người đã vung tay quá độ, để cho sân hận ngập tràn đến nỗi làm đớn đau kẻ khác, con người đã thờ ơ, lãnh đạm trước những nỗi bất hạnh của kẻ khác, và làm ngơ trước những lời van xin cầu khẩn của người đang gặp nạn.
Người tuyệt vọng mang một cảm giác thật là trống vắng, như thiếu kẻ đồng hành, như thiếu người chở che, cứ đơn độc quờ quạng trong bóng đêm, càng đi, bóng đêm càng dày đặc, không có chút tia sáng nào chọc thủng màn đêm.
Người tuyệt vọng vì không tìm được tia hy vọng nào cho cuộc đời bất hạnh của mình, nên nghĩ đến cái chết vì cho rằng đó là cái phao giúp mình thoát khỏi vũng tuyệt vọng.
Một lần nữa, người tuyệt vọng lại vướng vào điểm sai lầm, đó là Tự Tử!! Nợ cũ thanh toán chưa xong đã muốn quỵt, không muốn tiếp tục trả nữa, giờ lại cao chạy xa bay, tìm đường lẩn trốn. Tưởng đâu rằng chết là chấm dứt khổ đau, là bước ra khỏi bóng đêm, ngờ đâu vừa mới đứt hơi nhắm mắt, hồn đã bay thẳng vào địa ngục do bởi lỗi lầm tự tử của mình! Nghiệp cũ giờ đây chồng thêm nghiệp mới, biết đến bao giờ mới thanh toán cho xong?
Không phải rằng chấm dứt kiếp này thì đương nhiên trở lại kiếp tới, bàn cờ trước, nếu nước cờ mình đi xấu quá, thì cứ xóa bàn làm lại cho đến khi nào nước cờ chiếm thế thượng phong thì thôi. Không phải như vậy! Đó là một ý tưởng hoàn toàn sai lầm.
Cái chết là một sự phá sản trên cõi Đời, có nghĩa là hoàn toàn xóa sạch tất cả những liên hệ cá nhân, những liên quan tương tác giữa những người Đồng Loại với mình.
Tuy nhiên, tất cả những gì thuộc về Tâm-Ý-Tánh đều không rời người đã chết nửa bước.
Nói tóm lại, người đã chết sẽ không còn bị vướng bận những khổ đau dằn vặt, những thương tâm, những nỗi bất hạnh, những cơn bệnh trầm kha gây nhiều đau đớn cho Thân Xác. Nhưng, NGƯỜI CHỦ của Nghiệp Lực tạo nên những cảnh huống này, vẫn chưa được đáp đền tương xứng với lỗi lầm mà người đã chết gây tạo ra cho họ trong kiếp quá khứ, họ cứ vẫn tiếp tục đòi, và nếu Nghiệp Duyên thuận lợi cho một cuộc đối mặt trong kiếp kế tiếp, thì bổn cũ sẽ soạn lại, có đôi khi còn khốc liệt hơn những cảnh huống trong kiếp mới vừa qua, do ở vốn và lời được gộp chung lại với nhau.
Vong Linh đã được chỉ dạy để biết rằng, đối phó với nghiệp lực không có nghĩa là trốn chạy nghiệp lực, càng trốn chạy càng gặp nhiều khốn đốn. Nghiệp lực chính là Chủ Nợ, Chủ Nợ đã sừng sững trước mặt mình rồi thì chạy đâu cho thoát?
Cách tốt nhất là phải tỏ thiện chí của người gây ra món nợ. Thói thường, người ta động lòng trước một người nhũn nhặn, dịu dàng với ngôn từ hòa nhã, thiết tha và tuyệt đối chân thật. Dùng bản chất đó mà thành tâm sám hối ăn năn tội lỗi của mình, song song với tất cả những điều tốt đẹp mình làm vì Nghiệp Lực, và cho Nghiệp Lực.
Có được như vậy, tình huống mới giảm bớt từ từ. Càng quýnh quáng, càng nôn nóng, và nhất là càng thiếu niềm tin về một đời sống tâm linh, hiện hữu từ quá khứ kéo dài đến hiện tại và luôn cả vị lai, người trả nợ sẽ dễ bị sa lầy, rơi vào ngõ cụt, đưa đến tình trạng tuyệt vọng và đôi khi tìm đến cái chết trong gang tấc.
Vong Linh được hưởng đặc ân 49 ngày để tu tập, được chỉ dẫn cách thức để hóa giải nghiệp lực, nhờ đó mà Vong Linh sẽ được nhẹ nhàng cất bước tìm nơi thác sinh.
Khi trở lại cõi Ta Bà, Thần Thức của Vong Linh hãy cố gắng dẫn dắt Thân Xác Mới của mình tiếp tục việc tu tập, chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh, loại bỏ những tánh xấu và luyện tập nhiều tánh tốt. Nghiệp Lực do Thần Thức của Vong Linh đã gây tạo từ bao nhiêu kiếp đã qua, số nhiều chất cao như núi. Nếu không biết tu tập để hóa giải lần hồi những nghiệp lực thì Nghiệp cứ chất chồng Nghiệp, biết đến bao giờ mới chấm dứt, và Vòng Sanh Tử cứ tiếp tục trôi lăn trong bánh xe Luân Hồi.
Các Đấng Từ Bi thương Chúng Sanh của cõi Ta Bà, vì không am tường Nghiệp Lực, cứ thản nhiên gây tạo nghiệp chướng, kết chặt oan trái, nên đã làm đủ mọi cách để chỉ dạy phương thức hóa giải nghiệp lực.
Ngày còn trên cõi Đời, Chúng Sanh ham vui, thích hưởng thụ nên không tha thiết đến lời chỉ dạy, vô tình hay cố ý làm nhiều điều xằng bậy, làm thương tổn đến Đồng Loại của mình. Khi trở thành Vong Linh rồi, có đủ khả năng nhìn thấu suốt hậu quả của việc mình làm thì sự thể đã muộn màng rồi, có còn thân xác đâu để mà học hỏi nữa.
Vong Linh hãy nhớ rằng, 49 ngày là cơ hội cuối cùng mà các Đấng Từ Bi dành cho Vong Linh. 49 ngày gói ghém hết tất cả tâm huyết của Chư Phật và Bồ Tát để giúp cho Vong Linh, trước tiên là biết sám hối, biết trì Chú, biết niệm Phật để hóa giải bớt một phần nào Nghiệp Lực hầu có thể cất nhắc nổi đôi chân của mình lên, để có thể gặp được Bồ Tát Địa Tạng Vương giúp đỡ tìm Mẹ Cha mới của mình; sau đó là biết tu tập để chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh, vừa giúp cho kiếp kế tiếp của mình có được một cuộc đời tốt đẹp hơn, ít những cảnh huống đớn đau xảy tới, đồng thời có được thiện duyên gặp Thiện Tri Thức giúp cho tu tập để mở mang Trí Huệ, triển khai được Từ Bi Hỷ Xả và cơ hội Thăng Hoa sẽ đến ngay trong hiện đời, không cần phải chờ đợi đến phút lâm chung.
Vong Linh chết vì tuyệt vọng, thì đây là cơ hội tốt nhất để ăn năn sám hối, đem hết tâm thành của mình mà hối lỗi, ráng cố gắng trì Chú cho thật nhiều để nhờ công năng của câu Thần Chú làm mờ dần những hình ảnh nghiệp chướng trong tâm thức, sau cùng thì tha thiết niệm Phật để nhờ hào quang của Phật giúp cho xóa mờ dần những oan trái buộc ràng trong tâm thức.
Vong Linh hãy ráng ghi nhớ lời Pháp hôm nay. Khi trở lại cõi Ta Bà, những lúc gặp nhiều trắc trở, éo le trong cuộc đời, đó chính là lúc mà Nghiệp Lực triển khai mạnh mẽ nhất. Hãy cố gắng giữ sự an bình, đem hết tâm thành để sám hối ăn năn lỗi lầm của mình, song song với việc hành thiện thật nhiều. Đừng quá đau khổ mà đâm ra tuyệt vọng.
Vong Linh đã được giải thích rất rõ ràng và được chỉ dạy cách thức để hóa giải Nghiệp Lực. Những gì học hỏi ngày hôm nay, chưa chắc vẫn còn in đậm nét trong tâm thức nơi Thân Xác Mới, do đó, nếu Vong Linh không cật lực khắc cốt ghi tâm thì Thần Thức của Vong Linh sẽ khó mà chuyển tải những hiểu biết này cho Thân Xác Mới về sau.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
TUẦN THẤT THỨ BẢY:
Ngày thứ 43:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Trong suốt cuộc đời của kiếp mới vừa qua, Vong Linh đã mắc biết bao nhiêu món nợ tình cảm, có món thì trả đủ, có món thì trả thiếu và cũng có món chẳng bao giờ nhắc đến chuyện hoàn trả.
Những cảnh huống ở trên đời đều xoay quanh những tình cảm.
Một đứa trẻ không cha không mẹ, sống lang thang vất vưởng giữa chợ đời, chịu nhiều đắng cay, tủi nhục, sẽ vô cùng biết ơn người đã vực nó ra khỏi hố sâu của cuộc đời. Nó sẽ không ngại lăn xả vào bất cứ một tình thế khó khăn nào để bảo vệ, để chở che cho ân nhân của nó.
Một tình bạn gắn bó, đồng cam cộng khổ trước những phong ba bão táp của tình người, tình đời, cũng chỉ để bảo vệ cái tình cảm lâu dài giữa 2 người bạn.
Vì tình yêu, vì tình cảm lứa đôi buộc ràng mà đôi trai gái đã thề sống chết có nhau và cùng hy sinh mạng sống để bảo vệ mối tình đầy sóng gió.
Tình yêu vô bờ bến của Cha với Mẹ là nguyên động lực khiến cho đứa nhỏ phải chùn bước trước những cạm bẫy của môi trường chung quanh nó.
Cảm nhận được một tình cảm sâu sắc của đứa trẻ tật nguyền đối với con vật, người thợ săn không còn hứng thú để tiếp tục cuộc săn lùng.
Trong cuộc sống thường ngày, một chút cảm tình của người bán đối với người mua, hay ngược lại, của người mua đối với người bán cũng đủ khiến cho cuộc mua bán, trao đổi trở nên dễ dàng, nhanh chóng.
Rõ ràng là tình cảm đã tạo nên cảnh huống và những con người có liên quan đến cảnh huống đó sẽ vui buồn, đau khổ, hận tủi theo cái tình cảm đó.
Ngay cả một kẻ được xem là dửng dưng, vô cảm, hành động hay thái độ của kẻ đó cũng vẫn nói lên một tình cảm. Vong Linh hãy chiêm nghiệm thí dụ sau đây: Mọi người cố gắng dỗ dành một đứa bé đang giãy khóc dữ dội vì đòi mẹ nó. Kẻ dửng dưng, vô cảm vẫn thản nhiên đứng nhìn; nhưng, sau cùng, một tiếng hét của kẻ đó khiến cho đứa bé nín khóc ngay tức khắc. Tiếng hét pha lẫn sự giận dữ, sự bực dọc vì tiếng khóc. Tức là, kẻ vô cảm đó vẫn biểu lộ một tình cảm khó chịu vì bực dọc, vì bị làm phiền.
Vong Linh có biết rằng, cái tình cảm nặng nề nhất dành cho tiếng khóc đầu đời bé nhỏ, đó chính là Tình Cha Nghĩa Mẹ!! cái con người bé bỏng, tí xíu kia vừa mới lọt lòng, đã nhận lấy một tình cảm buộc ràng.Tình cảm đó không nhỏ, nó cao như núi cả, nó rộng như biển sâu.
Trong bất cứ một tình cảm nào, dù cạn hay sâu, dù to hay nhỏ, dù nặng hay nhẹ, nếu nó tạo được một tình huống, nó đều dung chứa một hay nhiều Nghiệp Lực buộc ràng.
Có thể nói rằng, tình cảm chính là cây cầu nối để cho Nghiệp Lực triển khai.
Không có tình cảm nảy sinh, làm sao trai và gái gặp gỡ nhau, để rồi sau đó tiến đến hôn nhân, giúp cho Nghiệp Lực mặt đối mặt triển khai, khiến cho cả hai bên hôn phối Chủ Nợ lẫn Con Nợ phải hành xử việc Đòi Nợ và Trả Nợ của mình?
Cái tình cảm Mẹ Cha mà đứa bé mới chào đời đã bị buộc ràng, mào đầu cho một chuỗi Nghiệp Lực mặt đối mặt mà đứa bé phải đối diện sau này: đó là Nghiệp Lực đối với Đấng Sanh Thành - Nghiệp Lực đối với các anh chị em - Nghiệp Lực đối với Bà Con Dòng Họ...
Vong Linh hãy nhớ kỹ một điều, tình cảm nảy sinh với bất kỳ ai, không phải tự nhiên mà có; tình cảm lúc nào cũng đi trước, và kéo theo sau là Nghiệp Lực có liên quan đến người trong cuộc, và mọi cảnh huống đến với mình sau đó, đều bắt nguồn từ ở tình cảm nảy sinh lúc ban đầu.
Tình cảm càng khắng khít, cảnh giác càng lên cao, hãy biết chắc chắn rằng Oan Gia Trái Chủ đang hiện diện trước mặt mình, cố gắng mà sống Tốt, luôn ăn năn sám hối, gắng hành Thiện thật nhiều, thành tâm hồi hướng cho Oan Gia Trái Chủ để mọi tình huống xảy ra không trở nên quá là bi đát.
Đã lầm lỡ gieo Nhân không Lành, ngày nay nhận Trái Đắng, Trái Chua, cũng phải cam lòng mà gánh chịu. Đừng dại dột từ chối, đừng đối xử tệ bạc với người đến đòi nợ, đừng làm cho cảnh huống rối ren thêm, đôi khi lại trở nên nặng nề khiến cho luật pháp người Đời xen vào, làm cho tình thế càng bất ổn, Nghiệp lực càng thắt chặt, khó lòng tháo gở. Khi đó Vốn - Lời chồng chất, món nợ Nghiệp Lực chỉ có tăng thêm chớ không có giảm sụt; hiện kiếp không trả hay trả chưa xong, hứa hẹn nhiều cay đắng ở kiếp Vị Lai.
Lời Pháp hôm nay là một lời nhắc nhở để khi Vong Linh trở lại cõi Ta Bà, hãy thận trọng rất nhiều khi trao một tình cảm cho ai, hoặc khi nhận tình cảm từ ở một ai đó. Tất cả đều dính líu đến một hay nhiều Nghiệp Lực.
Vong Linh đã được chỉ dạy để đối phó với Nghiệp Lực, do đó ráng mà ghi nhớ để hành xử cho đúng, hầu tránh khỏi tình trạng trả nợ không xong hay cảm thấy bất lực trước món nợ quá lớn lao đành phải bó tay không trả nổi.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 44:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ...Pháp Danh...),
Bài Pháp hôm nay sẽ vạch rõ cho Vong Linh thấy rằng: cái khiếm khuyết lớn nhất trong cuộc đời của Vong Linh, ở kiếp mới vừa qua, chính là sự kém hiểu biết!!
Chỉ vì kém hiểu biết mà Vong linh đã vô tình phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác. Có những sai lầm không tai hại, nhưng cũng có những sai lầm đem đến nhiều rắc rối, nhiều khó khăn, thậm chí sự thiệt hại lớn lao, không những cho chính bản thân mình mà còn cho những người chung quanh mình.
Vong Linh hãy duyệt qua một vài thí dụ sau đây:
-
Vì kém hiểu biết trong vấn đề chăm sóc thai nhi, không bổ sung đầy đủ chất bổ dưỡng cho cơ thể, nên người Mẹ đã cho ra đời một đứa con èo uột, gầy còm, yếu đuối và tật bệnh.
-
Do ở việc không biết dạy dỗ con từ thuở ấu thơ, không cản ngăn khi con giao tiếp với người xấu, nay con làm nên điều nông nổi, khiến cho bậc làm Cha Mẹ đành phải rơi lệ nhìn đứa con thân yêu của mình vướng vào vòng lao lý.
-
Vì kém tư duy, nghĩ suy nông cạn nên sa vào con đường cờ bạc, tưởng rằng sẽ đem về thật nhiều tiền, ngờ đâu lại tán gia bại sản.
-
Tưởng rằng chơi nước cờ cao, có thể đánh bại đối phương một cách dễ dàng bằng những chiêu trò lừa đảo, dè đâu gậy ông đập lưng ông, khiến cho thân bại danh liệt, mất đi uy tín đối với cộng đồng, xã hội, sự giao tế với mọi người cũng trở nên khó khăn do sự mất tín nhiệm.
-
Tự hào với mảnh bằng tốt nghiệp từ ngoại quốc, người kỹ sư nông nghiệp thiếu kinh nghiệm, thiếu kiến thức về thời tiết, về khí hậu của địa phương, nên đã đem đến sự thiệt hại nặng nề cho vụ mùa năm nay.
-
Chính trị gia tự tin ở tài năng của mình, không rà soát lại lòng Dân, không biết dân chúng trong vùng muốn điều gì, nguyện vọng gì, cho nên không lấy làm ngạc nhiên khi người này không được Dân lựa chọn làm người đại diện trong kỳ bầu cử.
- Vị nguyên thủ Quốc Gia đã đánh giá quá thấp khả năng trục lợi của nước đối phương; kết quả là một số lớn tài nguyên của Quốc Gia đã rơi vào tay của đối phương, đem lại một sự ngẩn ngơ đầy hối tiếc cho người nắm vận mệnh Quốc Gia
Trong cuộc sống hằng ngày, một sự kém hiểu biết, thiếu tư duy, sẽ dễ dàng đưa tới quyết định sai lầm, hay một tình huống vô cùng bi đát như sau đây:
-
Đang nấu thức ăn trên bếp, nhưng lại tiếp chuyện điện thoại trong phòng. Nồi thức ăn cháy khét, kết quả là hỏa hoạn xảy ra, suýt thiêu rụi cả căn nhà.
-
Trời mùa hè nóng nực, để con nhỏ trong xe, khóa cửa xe lại và đi vào khu thương mại. Đến khi trở ra thì con mình đã không còn hơi thở nữa rồi, đứa bé chết ngạt vì sức nóng trên xe.
-
Thuốc men để bừa bãi khắp nơi, không nằm trong tủ khóa lại, sẽ là những món đồ chơi vô cùng thích thú đối với những đứa bé trong khoảng từ 1 đến 3 tuổi. Đương nhiên là xác suất bị ngộ độc vì thuốc cũng sẽ lên rất cao đối với những bé thơ này.
-
Không quan tâm đến sức khỏe, đến hạnh phúc gia đình, người chồng trác táng, ăn chơi nhận lấy một kết quả thật thảm não khi mình vướng vào cơn bệnh nan y và không có một người thân nào bên cạnh để chăm sóc.
-
Cãi lời Mẹ Cha khuyên bảo, đứa con phóng xe trong sự bực tức, thiếu cảnh giác, đã gây nên tai nạn thương tâm làm thương tổn nhiều người khác.
- Do ở việc sử dụng điện để bắt cá dưới sông mà người thanh niên đã trả giá quá đắt cho việc làm thiếu hiểu biết của mình, đó chính là mạng sống của người này.
Hỡi Vong Linh,
Trong cuộc đời của một con người, một sự thiếu sót về Trí Tuệ, và ngay cả một sự thiếu Trí Huệ cũng đều dẫn dắt đến hết sai lầm này sang sai lầm khác.
Tư duy là điều vô cùng quan trọng trong cuộc đời con người. Có kiến thức nhưng thiếu tư duy, thì những hành động của mình cũng sẽ không khác gì của một người dốt nát.
Tư duy và kiến thức bổ sung cho nhau để có được một cái nhìn hay một sự nghĩ suy chín chắn và đúng mức.
Vong Linh đã hiểu rằng, sự kém hiểu biết tạo nên nhiều thiếu sót, gây nên nhiều lỗi lầm trong cuộc sống, và đáng ngại nhất là khi lỗi lầm đó lại vô tình đưa đến một nghiệp lực, một oan trái buộc ràng.
Do đó, nên cố gắng làm đầy cái trí tuệ của mình, làm cho sự hiểu biết của mình được phong phú hơn lên.
Vong Linh phải biết rằng, không phải ai cũng có đầy đủ phương tiện để đi đến trường học. Trí tuệ không nhất thiết phải có được từ trường học và theo một chu trình từ lớp nhỏ đến lớp lớn.
Người kém may mắn không theo được một chương trình học từ lớp nhỏ đến lớp lớn, từ bậc tiểu học lên đến bậc trung học hay đại học, tuy nhiên, với một ý chí đủ đầy, họ vẫn có thể trau giồi sự hiểu biết của mình trong suốt quãng đường đời. Họ không ngừng học hỏi, không ngừng tư duy, và luôn luôn tìm cách áp dụng những gì mình hiểu biết vào trong đời sống của mình.
Sự hiểu biết qua sách vở, qua báo chí, qua kinh nghiệm sống, qua cách hành xử của những người chung quanh, của những người mà họ giao tế hằng ngày, sẽ giúp cho họ tránh được những sai lầm đôi khi rất là căn bản.
Muốn tạo dựng được một sự hiểu biết phong phú, bắt buộc phải buông bỏ Tự Ái và tuyệt đối tránh mặc cảm Tự Ti.
Trong tiến trình học hỏi, có khi phải học hỏi với người nhỏ hơn mình,( tuổi đời họ tuy nhỏ nhưng kiến thức họ hơn mình), học hỏi với đồng nghiệp của mình, học hỏi với đối thủ của mình, học hỏi với một người hoàn toàn xa lạ, tuy không biết họ nhưng họ sở hữu những điều mà mình thiếu sót, cho nên cần phải học hỏi để bổ xung. Do đó, nếu vẫn khư khư ôm chặt tự ái và mang mặc cảm tự ti, nhỏ nhoi thì cả đời vẫn dậm chân tại chỗ, sự hiểu biết vẫn còn nông cạn, không thể nào tiến được, đương nhiên sự sai lầm dễ dàng xảy tới và sẽ càng tai hại hơn nếu thiếu sự tư duy.
Nhờ sự hiểu biết, nhờ sự tư duy mà Thân Xác của Vong Linh sẽ tránh được những lầm lỡ đáng tiếc, có thể đưa đến việc gây tạo nghiệp lực với người chung quanh.
Ngoài ra, nếu Thân Xác của Vong Linh biết chỉnh sửa Tâm-Tánh của mình song song với việc vun bồi sự hiểu biết, sự tư duy thì chắc chắn rằng cuộc đời của Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ ít gặp điều phiền muộn, ít đối diện với những trắc trở, và giảm thiểu được những đắng cay đến với mình.
Những Bài Học Nghiệp Lực cũng sẽ dần dần biến mất, không còn dai dẳng đeo đuổi từ kiếp này sang kiếp khác. Sự tư duy kèm với sự hiểu biết sẽ giúp cho Thân Xác nhận chân ra được điều sai lầm đã được lập đi lập lại từ kiếp này qua kiếp khác, khiến cho những Bài Học Nghiệp Lực cứ càng ngày càng đậm nét chớ không thể xóa mờ đi được.
Mong rằng Vong Linh sẽ khắc cốt ghi tâm những lời Pháp hôm nay để có thể cải thiện cuộc đời của kiếp kế tiếp cho được nhiều tốt đẹp, nhiều ý nghĩa hơn trong cuộc sống.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 45:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Ngày còn hiện diện trên cõi Đời, chắc chắn rằng Thân Xác của Vong Linh cũng không ít lần đối diện với sự bất công. Cũng có khi chính những bất công lại xô đẩy Thân Xác của Vong Linh vào những cảnh huống, những tình thế thật là rối ren, khó tháo gở.
Thông thường, càng nghèo khó, càng nhận nhiều bất công!!
Vì nghèo cho nên không có đủ điều kiện về tài chánh để tham dự những lớp dạy bổ túc, dạy kèm, những lớp hướng dẫn luyện thi chuyên ngành, do đó không thể nào chen chân cùng các bạn để thi vào những đại học danh tiếng hay những đại học mình ưa thích.
Cái nghèo cũng đã ngăn cản bước tiến thân của rất nhiều người trẻ. Hoàn cảnh gia đình quá eo hẹp về tài chánh, nên phải sớm bước ra Đời bươn chải để mưu sinh. Cơ hội để trau giồi kiến thức, vun bồi khả năng sáng tạo không có, do đó khó lòng tìm được một việc làm thích hợp với mức lương cao. Việc thua kém bè bạn là chuyện đương nhiên!
Nghèo khó, ăn mặc luộm thuộm, xốc xếch, bước vào một tiệm ăn khang trang, đẹp đẻ, chắc chắn sẽ tạo nên một sự nhầm lẫn cho người đón khách, vì họ sẽ lầm tưởng rằng đây là một người đến ăn xin hơn là một thực khách.
Tuy nhiên, không phải chỉ có người nghèo mới bị đối xử bất công, người giàu có vẫn nhận lấy sự bất công như thường!!
Trong giới sang giàu vẫn có sự phân chia tầng lớp thấp, tầng lớp cao, kẻ giàu nhiều, người giàu ít. Do đó, việc cá lớn nuốt cá bé, người giàu nhiều hiếp đáp, tranh giành với người giàu kém hơn mình, gây tạo sự bất công, đó là điều rất thường xảy ra.
Người giàu có muốn nhờ sự giúp đỡ của kẻ giàu hơn mình, quyền thế hơn mình, cũng vẫn phải khúm núm, quà cáp, luồn cúi, đôi khi cũng phải cần đến người trung gian môi giới.
Mỗi khi có thăng thưởng ở các công ty tư nhân, hoặc trong các cuộc thăng quan tiến chức ở các cơ quan công quyền, sẽ không tránh khỏi có những bất công, chẳng qua là do ở cảm tình, do sự gửi gắm, hoặc do ở sự cả nể đối với thân nhân của cấp chỉ huy. Do đó mà những nhân viên làm việc giỏi, siêng năng, cần mẫn, có nhiều khả năng, sẽ dễ dàng bị bỏ quên trong vấn đề tăng lương, lên chức.
Ngay trong gia đình, bất công vẫn có thể xảy ra giữa các con cùng cha cùng mẹ.
Tình trạng con thương con ghét, con nâng niu con đày đọa, kẻ hưởng lợi nhiều, người hưởng lợi ít, cha mẹ phân chia tài sản không đồng đều cho các con.. v…v... Tất cả đã tạo nên một tình huống éo le, một thảm kịch gia đình đưa đến nhiều cay đắng xót xa, đôi khi con phải lìa cha mẹ, hay huynh đệ trở nên tương tàn.
Bất công cũng xảy ra thật rõ ràng giữa chủng tộc, màu da.
Một thứ tiếng nói lạ, một màu da khác với tất cả mọi người, luôn luôn đưa đến một sự phân biệt, và đương nhiên, có phân biệt là có bất công.
Người dân bản xứ nhận được những quyền lợi dồi dào, đầy đủ từ ở cơ quan công quyền, trong khi người thuộc chủng tộc khác thì bị ngăn cấm trong nhiều hoạt động, những quyền lợi thì bị giới hạn, và rất dễ dàng bị trục xuất ra khỏi đất nước mình hiện diện vì một lỗi lầm không đáng kể.
Người khác chủng tộc sống lẫn lộn chung với người bản xứ từ nhiều đời, thường tụ tập ở một nơi cố định, họ có những tập quán, một vài phong tục có tính cách riêng biệt, cuộc sống hằng ngày của họ cơ cực hơn, lam lủ hơn, họ không nhận được nhiều quyền lợi, nhiều sự giúp đỡ từ chánh quyền sở tại.
Bất công rất dễ nhận ra trong vấn đề tình cảm.
Cô gái chọn kết hôn với người giàu có, và từ chối người mình yêu vì kém bạc tiền, đó chính là Bất Công!
Con ruột thì thừa hưởng sản nghiệp, con nuôi thì được chia cho vài chục phần trăm trên tiền lời từ sản nghiệp, dù rằng cả hai đều được nuôi dưỡng, dạy dỗ dưới cùng một mái nhà.
Đem em mình về nhà ở, tiếng nói là nuôi dưỡng, bảo bọc, nhưng buộc em mình phải phục dịch như tôi tớ trong nhà, đó chính là Bất Công!
Bất công cũng thể hiện rất rõ ràng qua giao tế hằng ngày.
Xếp hàng cả buổi trời để mua cho được món hàng giảm giá mà mình ưa thích vì tiệm chỉ lấy đúng 10 người mà thôi; cửa tiệm vừa mở ra, chưa kịp lách mình vào thì tiệm tuyên bố đã đủ người rồi. Hóa ra những người quen biết với chủ tiệm đã đứng chực sẵn ở bên trong tiệm rồi.
Cũng cùng một lô hàng, nhưng người A mua thì phải trả 100 đồng, trong khi người B chỉ phải trả có 80 đồng mà thôi. Có sự bất công là tại vì người B là người đồng hương với chủ tiệm!
Bệnh nhân nào thanh toán trước chi phí bệnh viện thì sẽ được chữa trị ngay, thanh toán càng chậm thì thời gian chờ đợi để được điều trị càng kéo dài. Như thế đủ thấy là ngay cả ở bệnh viện, sự bất công vẫn hiện diện.
Hỡi Vong Linh,
Trên đây chỉ là một số ít trường hợp tiêu biểu cho sự Bất Công. Vậy chớ, bất công là gì? Tại sao con người sống trên cõi Ta Bà cứ phải luôn đối diện và khổ đau vằn vật với những bất công?
Bất công là từ ngữ nói lên một sự cáo buộc, sự cáo buộc đó chính là sự không công bằng.
Khi một đòi hỏi được đáp ứng thì cho đó là công bằng; nếu đòi hỏi đó bị từ chối hay chỉ được thỏa đáng một phần nào đó mà thôi thì sẽ được cho là bất công.
Do đó, bất công hay không bất công tùy thuộc vào sự thỏa đáng hoàn toàn hay không hoàn toàn khi được yêu cầu giải quyết một vấn đề gì đó.
Qua những thí dụ kể trên, Vong Linh hãy thử đi tìm gốc rễ của những bất công.
Có những bất công vì nghèo khó - bất công xảy ra ngay trong tầng lớp giàu có - bất công hiện diện ngay trong quan trường - bất công khiến gia đình xào xáo, anh chị em thiếu thuận hòa - bất công giữa các chủng tộc - bất công trong vấn đề tình cảm cá nhân, gia đình, dòng họ...v..v..
Dù cho dưới một hoàn cảnh nào, bất công cũng đều là từ nghiệp lực mà ra.
Trong kiếp quá khứ, nếu đã có lần mình đối xử với người không được công minh, thiếu sự công bằng, hành động của mình đem lại sự thiệt thòi cho kẻ khác, thậm chí một sự uất hận, tức tưởi, thì ngày giờ này ở hiện kiếp, bất công đến với mình.
Bất công khiến cho nước mắt mình tuôn rơi, bất công làm cho đầu óc mình quay cuồng, mình thất điên bát đảo vì bất công, mình muốn tự tử cũng vì bất công...tất cả Quả Trái không lành đó đều xuất phát từ ở cái Nhân thiếu Công Bằng, hành động hàm hồ, thiếu tư duy, luôn cả bất cần, không xem trọng tâm tư của kẻ khác.
Vong Linh hãy phân biệt, nghiệp lực tạo ra hoàn cảnh của mỗi con người (như giàu, nghèo, gia đình, cha mẹ, anh chị em, bà con dòng họ, chủng tộc, vợ chồng, con cái, bạn bè…) và nghiệp lực đưa đến sự bất công, cả hai hoàn toàn khác biệt nhau. Nhưng, nếu nghiệp lực đưa đến sự bất công được đặt vào trong nghiệp lực tạo ra hoàn cảnh, khi đó cả hai nghiệp lực cùng bổ túc cho nhau và tạo nên một cảnh huống vô cùng bi đát trong cái hoàn cảnh đó.
Đơn cử một thí dụ sau đây để cho Vong Linh dễ nhận ra hai nghiệp lực bổ túc cho nhau:
Nghèo là kết quả của cái tánh bỏn xẻn, ích kỷ, thiếu bố thí, thiếu tương trợ, từ chối giúp đỡ người hoạn nạn. Người sống trong cảnh nghèo sẽ phải trải nghiệm cái hậu quả của những tánh xấu kể trên qua sự đối xử của người chung quanh đối với mình.
Người sống trong cảnh nghèo sẽ dễ dàng bị kẻ mạnh hiếp đáp, bị kẻ giàu có bóc lột, bị kẻ lưu manh lừa đảo, bị kẻ xấu cướp giựt, nói tóm lại, bao nhiêu cái bất công cứ tuôn ập đến với mình, đôi khi có miệng mà chẳng thốt được nên lời, oan tình khó biện bạch, tâm sự không lời diễn tả, ôm nỗi hận trong lòng và luôn miệng trách móc Phật Trời tại sao lại đem khổ đau trút xuống đầu mình?
Người nhận chịu sự bất công không bao giờ tư duy để xem coi những bất công đó xuất phát từ ở gốc rễ nào? Làm thế nào để chặt phá những gốc rễ đó hầu làm giảm bớt đi sự bất công?
Họ cứ tiếp tục ôm và giữ chặt những bất công, thậm chí còn kêu gọi người khác cùng hưởng ứng với mình để làm cho những bất công càng nổi bật lên, gây sự chú ý của những người chung quanh.
Bất công không bao giờ đi riêng rẽ một mình, nó luôn luôn lồng trong một hoàn cảnh, và từ hoàn cảnh đó mới nảy sinh ra bất công, do đó cảnh huống tạo nên cũng sẽ vô cùng bi đát.
Chúng Sanh trong cõi Ta Bà cứ liên tục tạo không ngừng nghỉ những nghiệp không lành, những nghiệp đó cứ theo thứ tự thời gian mà triển khai, có khi tác động đơn thuần, có lúc đột phá trong từng hoàn cảnh. Vì nghiệp lực quá nhiều không kể xiết, cho nên bất cứ lúc nào, bất cứ kiếp người nào, nghiệp lực cũng triển khai khi thuận duyên, không có sự dừng bước.
Nghiệp lực chỉ chậm lại khi con người biết tu tập, biết ăn năn sám hối, can đảm sửa chữa lỗi lầm, chỉnh đốn lại Tâm-Ý-Tánh của mình, quyết lòng không gây tạo tội nữa. Điều đó có nghĩa là chính mình tự đặt cho mình một rào cản. Bên này rào cản sẽ là khoảng trống không, sẽ không còn dung chứa bất kỳ một nghiệp lực nào nữa cả; bên kia rào cản là những nghiệp lực đã nhiều lần gây tạo nên, cần phải được làm cho vơi lần đi qua sự tu tập.
Do đó, khi trở lại cõi Ta Bà, Thần Thức của Vong Linh cố gắng giúp cho Thân Xác Mới tránh tạo thêm nghiệp chướng bằng cách gây khá nhiều ảnh hưởng TỐT lên tánh tình, lên thói hư tật xấu của Thân Xác.
Đương nhiên là hoàn cảnh xấu vẫn xảy ra, bất công vẫn hiện diện, cảnh huống vẫn không tránh khỏi, nhưng, khi Thân Xác đã nhận thức được rằng, mình đã gây tạo sai lầm nên quyết tâm sửa đổi Tâm-Ý-Tánh, và đồng thời chân thành tha thiết sám hối, ăn năn, luôn hành Thiện, tránh tất cả những cơ hội có thể tạo nên nghiệp chướng, được như vậy thì những khó khăn trong cuộc sống sẽ từ từ giảm bớt cường độ, Thân Xác sẽ cảm thấy thoải mái hơn trong cuộc sống tuy rằng vẫn phải liên tục trả nghiệp.
Vong Linh hãy nhớ kỹ một điều là, Thần Thức và Thân Xác có một sự hỗ trợ lẫn nhau. Thần Thức có tu tập, biết vun bồi tánh tốt, loại bỏ những tánh xấu, làm cho cái nền tảng Lương Tâm phong phú thêm, sẽ biết giựt dây báo động khi Thân Xác làm những hành vi sai trái, thiếu suy nghĩ.
Thân Xác nếu có duyên may gặp được Thiện Tri Thức chỉ dẫn cho tu tập, biết cách thức để chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh, sẽ giúp được cho Thần Thức thăng hoa, như vậy thì Thần Thức sẽ thoát được kiếp luân hồi, không phải trở đi trở lại cõi Ta Bà nữa. Khi đó Thần Thức sẽ thực sự an nhiên tự tại ở nơi mình mong muốn.
Vong Linh hãy cố gắng ghi nhớ cho thật kỹ lời Pháp hôm nay để áp dụng cho thật tốt, giúp cho Thân Xác Mới của mình có được một cuộc đời tốt đẹp, bình an, ít sóng gió.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 46:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Trong suốt cuộc đời Con Người ở cõi Ta Bà, điều quan tâm hàng đầu chính là Sức Khỏe!
Từ lúc mới lọt lòng Mẹ, sức khỏe của đứa bé là điều tiên quyết giúp cho Cha Mẹ hân hoan hay khiến cho Cha Mẹ lòng dạ rối bời.
Thật vậy! Một đứa bé được sinh ra èo uột, gầy còm, mang nhiều tật bệnh với dây ống quấn quanh người, thử hỏi có cha mẹ nào cam lòng nhìn đứa con còn đỏ hỏn cứ thoi thóp trên giường bệnh hay không?
Vui sao cho được, mừng rỡ như thế nào, khi mà mạng sống của con mình như chỉ mành treo chuông?
Chín tháng cưu mang, chịu nhiều đớn đau sanh con ra, nay con không may mang bệnh nặng, tiền của cứ tuôn ra để chữa bệnh cho con, không ngại tốn hao, không ngại tốn công, miễn sao con an lành, khỏe khoắn là đủ rồi.
Con lớn lần theo năm tháng thì Mẹ Cha cũng lụn dần theo ngày tháng.
Sức khỏe của con ngày càng sung mãn thì sức khỏe của Mẹ Cha mỗi lúc một hao mòn.
Hỡi Vong Linh,
Vừa mở mắt chào Đời, món quà đầu tiên mà Cha Mẹ dành cho con của mình, đó chính là Sức Khỏe.
Từ lúc con còn thơ dại cho đến lúc con trưởng thành, Mẹ Cha đã liên tục vun bồi cái sức khỏe đó.
Từng giọt sữa nhỏ vào miệng con, cho đến từng bình sữa, từng ly sữa, rồi từng muỗng cơm, từng chén cơm, từng mâm cơm với đủ đầy chất dinh dưỡng, Mẹ Cha đã không ngừng bù đắp để giúp cho con mình mạnh khỏe, rắn chắc, vững vàng mà tiến bước trên đường học vấn lẫn đường Đời.
Có thể nói, sức khỏe là một gia tài vô cùng lớn lao mà con cái đã nhận được từ Cha Mẹ.
Những đứa con hiếu thảo, luôn vâng lời Cha Mẹ dạy thì biết cách sử dụng cái gia tài đó một cách khôn ngoan.
Sức khỏe được đầu tư vào việc học, đầu tư vào việc luyện tập cho cơ thể cường tráng lên, đầu tư vào những cuộc thi về thể lực, đầu tư vào những công trình nghiên cứu lâu dài đòi hỏi một sức chịu đựng dẻo dai, đầu tư vào những công việc lợi ích chung như cứu hỏa, cấp cứu, đầu tư vào những ngành nghề cần một thời gian làm việc kéo dài như bác sĩ, y tá, trợ tá nhà thương..v..v..
Nói tóm lại, bất cứ một hoạt động nào trong xã hội, trong quốc gia, trong một môi trường nào đó, cũng đều đòi hỏi người thừa hành phải có một sức khỏe tốt, vững vàng, ít bệnh trầm kha.
Sức khỏe là điều kiện cần thiết để đi đến sự thành công trong mọi lãnh vực.
Tuy nhiên, đáng tiếc thay, có những kẻ không quan tâm đến sức khỏe. Họ dày vò cơ thể của mình qua rượu chè, qua bài bạc suốt canh thâu. Những cơn nghiện ngập ghiền ma túy khiến cho họ mất đi cái tư cách Người của mình, họ bò lăn dưới đất, cuộn tròn cái thân thể gầy còm trơ xương để chịu đựng sự thôi thúc, sự hành hạ của cơ thể khi thiếu thuốc.
Khi có được chút ít thuốc vào rồi thì đến phiên "con quỷ dâm dục" trong người của họ bắt đầu quậy phá, và họ lại đắm chìm trong si mê dâm loạn.
Cuộc đời của họ cứ thế mà đi, ngày qua ngày. Cái tài sản to lớn mà Mẹ Cha đã chắt mót, bù đắp cho họ đã tan biến từ lâu rồi, ngày giờ này chỉ còn lại một thân thể bạc nhược, xanh xao, một hình hài gầy còm không khác gì lau sậy bên đường, một cơn gió thoảng qua cũng đủ làm cho chúng nằm rạp xuống.
Vong Linh đã biết rằng, phải hội đủ những nhân duyên mới có thể trở lại làm Người. Khi đã mang một Thân Xác Mới rồi thì tại sao lại hủy hoại cái Thân Xác đó?
Chính nhờ vào Thân Xác mà Thần Thức mới học hỏi được nhiều điều mới lạ, mới chỉnh sửa được Tâm-Ý-Tánh của mình, mới tu tập để được thăng hoa.
Muốn làm cho tiêu nghiệp, phải nhờ qua Thân Xác. Muốn thoát kiếp Luân Hồi cũng phải nhờ qua Thân Xác tu tập. Như vậy, cần phải giữ gìn cho Thân Xác luôn được khỏe mạnh, ít bệnh hoạn, không khiếm khuyết.
Sức khỏe dồi dào, con người luôn sảng khoái sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc học hỏi cả về Đường Đời lẫn Đường Đạo.
Đã mang kiếp con Người thì không thể nào rời xa nghiệp lực được, tuy nhiên, không vì thế mà xao lãng việc giữ gìn sức khỏe của mình, nhất là khi mình đang tiến vào tuổi già hoặc mình đang ở trong tuổi già.
Tuổi đời càng chồng chất, nghiệp đổ ra càng nhiều, bệnh hoạn cứ dồn dập kéo tới, lại càng phải nỗ lực giữ gìn sức khỏe để chăm lo việc tu tập cho đến giờ phút cuối, ra đi trong sự sáng suốt, nhẹ nhàng, thanh thản.
Không phải đợi đến khi chân mỏi gối chùn, hay bệnh hoạn tới tấp mới lo đến việc giữ gìn sức khỏe.
Sức khỏe là một gia tài, nhờ có gia tài đó mà bao nhiêu công trình, bao nhiêu dự án trong cuộc đời của một con người mới có thể hoàn tất được.
Khi còn hơi thở, bắt buộc phải trân quý và phải gìn giữ cái sức khỏe của mình. Đừng vùi dập, đừng hững hờ và nhất là đừng xem nó như một món đồ chơi, sử dụng nó cho đến rách nát.
Phải nhớ rằng, khi sức khỏe không còn nữa là đã tới lúc mình xa lánh cõi Đời rồi đó.
Sống cho khôn ngoan, sống biết nhận thức, biết tư duy thì đó mới là Sống Đúng. Một mai khi bỏ báu thân, dù chưa được thăng hoa, Thần Thức cũng vẫn không quá nặng nề khi đi tìm cho mình một hướng đi đúng.
Hỡi Vong Linh,
Bài Pháp hôm nay là một sự nhắc nhở để cho Vong Linh phải khắc cốt ghi tâm rằng, Sức Khỏe là một kho tàng vô giá không có gì đánh đổi được. Còn sức khỏe là còn tất cả! Sức khỏe lụn tàn rồi thì Xác Thân cũng chẳng còn cất nhắc nổi nữa đâu, chỉ chờ cho ngọn đèn phụt tắt để ra đi mà thôi.
Sức khỏe phải được giữ gìn ngay từ lúc còn tươi trẻ, chớ không phải đợi đến lúc về già mới chăm sóc thì đã muộn rồi.
Cha Mẹ cho ta sức khỏe ngay từ Đầu Đời, do đó, giữ gìn sức khỏe là hành động báo ơn Cha Mẹ để chứng minh với Đấng Sanh Thành rằng, sức khỏe đó hữu dụng trong suốt cuộc đời của đứa con.
Đừng bao giờ đem sức khỏe của mình ném một cách không thương tiếc vào những môi trường có tính cách hủy hoại thân xác của mình.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 47:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Ngày hôm nay, Vong Linh sẽ tư duy về một đức tánh vô cùng quan trọng, góp phần làm nên cái tư cách Người của Vong Linh ở kiếp vị lai, đó chính là Tánh Khoan Dung.
Khoan Dung có nghĩa là Tha Thứ.
Khi một ai đó làm điều gì phương hại đến quyền lợi, thậm chí đến thân thể hay tài sản của một cá nhân khác, người đó bắt buộc phải nói lời xin lỗi và đồng thời phải tỏ thái độ ăn năn hối lỗi, ngay cả sự đền bù, để được nhận một lời Tha Thứ từ cá nhân đó.
Khi mình lỡ làm một điều lầm lỗi với bất cứ ai, tư cách Người không cho phép mình ngoảnh mặt quay lưng hay trốn chạy. Trách nhiệm đối với lỗi lầm của mình, bổn phận của một người gây tạo tội, đã bắt buộc mình phải đối diện với sự thật, đối diện với kết quả gây tạo tội của mình để thẩm định những tổn thất mà mình đã gây tạo ra.
Một sự chân thành thiết tha hối lỗi mới kích động được sự khoan dung, tha thứ của kẻ nhận chịu sự thiệt thòi.
Nhờ có sự tha thứ mà oan trái không bị buộc ràng, vòng nghiệp lực không bị đóng lại, người gây lầm lỗi cũng không cảm nhận một mặc cảm quá lớn lao.
Giữa người gây lầm lỗi và người nhận chịu sự thiệt thòi có sự cảm thông nhau, tránh được lòng thù hận có thể đưa đến sự trả thù.
Người ta tha thứ cho mình, thế còn mình đối xử như thế nào, có thể tha thứ được cho người khác hay không?
Vong Linh hãy nhớ rằng, một khi tự ái không nổi lên thì lòng khoan dung mới có thể vượt lên cao được.
Lòng khoan dung càng lớn chừng nào thì sự thành tựu về phẩm chất con người của mình càng cao chừng nấy, mình trở nên không hẹp hòi, ích kỷ và nhất là sống không tính toán thiệt hơn với mọi người. Càng ngày mình sẽ càng trở nên đắc nhân tâm hơn.
Do đó, nên rộng lượng trong cách đối xử với đồng loại của mình. Không nên để trong lòng những điều xấu xa của thiên hạ, và hãy mở rộng tấm lòng để đón tiếp những điều mà mình chưa có dịp học hỏi.
Vong Linh hãy ráng ghi nhớ điều này: người khoan dung dù có bị chê trách cũng không lấy làm phiền giận, cho dù có được ngợi khen cũng không lấy làm vinh hạnh hay hả hê. Người đối tốt với Ta thì Ta đối tốt lại, Người không đối tốt với Ta thì Ta cũng vẫn đối tốt với Người, không có gì thay đổi cả. Đó mới chính là Khoan Dung, mới chính là Tha Thứ.
Sống mà luôn luôn biết đến hai chữ Bao Dung, cuộc sống sẽ trở nên dễ chịu hơn, không gút mắt, Hạnh Phúc chỉ trong tầm tay, không quá xa vời.
Nếu cuộc đời cứ luôn xoay quanh vấn đề Trả Thù, Trả Hận, cứ luôn nghĩ đến việc trừng phạt người này, kỷ luật người kia, thì nó cũng đồng nghĩa với việc là mình đang trừng phạt chính bản thân mình. Mình ôm tất cả những gì xấu xa của người khác trong lòng mình tức là mình đang ôm giùm họ tảng đá nặng. Một việc làm quả thật là "thiếu sáng suốt", cần phải tránh!!
Hãy biết tha thứ cho Người dù cho Người có mạt sát Ta, có làm tổn thương Ta. Món nợ đó đã được Ta xóa bỏ đi qua sự thứ tha và nó sẽ trở thành Phước Báu cho riêng Ta.
Vong Linh hãy giúp cho Thần Thức của mình tập luyện Tánh Bao Dung, đừng nhìn chăm chăm vào lỗi của kẻ khác trong khi lỗi của chính mình thì không bao giờ mình ghé mắt tới.
Hỡi Vong Linh,
Khi trở lại cõi Ta Bà, trong Thân Xác Mới, Thần Thức của Vong Linh hãy cố gắng giúp cho Thân Xác của mình sống một cách cao thượng hơn với thật nhiều tánh tốt.
Hãy tập sống một cách tích cực và bình thường để nhận thức rằng ai cũng có thể gây tạo lỗi lầm, kể cả chính mình, do đó sẵn sàng tha thứ cho Người thì Người cũng sẽ rất hoan hỷ bỏ qua lỗi lầm của mình.
Từ đó, không khí Hận Thù không lan tỏa, người người sẽ sống trong sự cảm thông nhau, hiểu biết nhau hơn. Cuộc đời sẽ trở nên có ý nghĩa hơn, hạnh phúc hơn nhờ mọi người biết Tha Thứ cho nhau.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 48:
Hỡi Vong linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Bài Pháp hôm nay sẽ hướng dẫn để cho Vong Linh hiểu rõ hơn về ý nghĩa của từ ngữ Bố Thí.
Bố Thí là hành động CHO ai một cái gì đó với sự rung động của Tâm.
Nhìn thấy một đứa bé rách rưới, đói lạnh, run rẩy dưới trời mưa, lòng chợt nhói đau, đưa đứa bé vào trong nhà cho nó thay bộ quần áo ướt sũng và cho nó thức ăn.
Bão lụt làm cho nhiều người sống trong cảnh màn trời chiếu đất, những người may mắn thoát nạn cùng góp một bàn tay, kẻ giúp tiền, người giúp đồ vật, kẻ ra công, người ra của, xây dựng lại mái ấm cho những người gặp nạn.
Lũ lụt và hỏa hoạn đều là thiên tai gây nên cảnh màn trời chiếu đất, hai sự kiện này thu hút rất nhiều người bố thí từ phía cá nhân cho đến các cơ quan công quyền.
Bố thí không nhất thiết phải là tiền của hay đồ vật.
Giúp một người thoát được sự cướp giựt của tên cướp, đó chính là hành động Bố Thí vì mình đã dùng sanh mạng của mình để bao che cho sanh mạng và tài sản của người khác.
Dùng thời giờ rỗi rãnh của mình để chỉ dạy thêm cho cậu học trò những môn học nào mà cậu còn yếu kém, đó là Bố Thí.
Chịu khó lắng nghe lời giãi bày tâm sự của ai đó và sau cùng là những lời khuyên nhủ chân thành giúp họ tìm được hướng đi đúng nghĩa cho cuộc sống, đó chính là Bố Thí.
Khuyên lơn, dẫn dắt một người lầm đường lạc lối trở lại đường ngay nẻo thẳng, đó chính là Bố Thí.
Giảng một thời Pháp giúp cho người nghe ngộ được lý Vô Thường về cuộc đời, về những sự vật, sự việc chung quanh mình và ngay cả bản thân mình, để rồi sau đó họ chỉnh sửa lại quan niệm sống của họ, không quá lệ thuộc vào những vật mà mình sở hữu, đó gọi là Bố Thí.
Sống trên cõi Đời, ai cũng có thể là người hành xử bố thí, và ai cũng có thể là người nhận bố thí. Đời là Bể Khổ, con người cứ mãi đắm chìm trong đau khổ, đó là kết quả của những nghiệp chướng chằng chịt gây tạo từ nhiều đời nhiều kiếp.
Hết vui tới khổ, hết khổ tới vui ! Khi vui tức là khi đang hưởng Phước thì bố thí cho người đang đau khổ. Khi khổ tức là khi đang bị Nghiệp Lực quấy phá thì đón nhận sự bố thí của kẻ đang vui, đang hưởng Phước. Do đó, không có sự phân biệt kẻ giàu, người nghèo, kẻ già, người trẻ, người cao sang, kẻ bần cùng trong lãnh vực Bố Thí.
Không phải đợi đến khi mình giàu có, dư ăn dư mặc mới làm chuyện bố thí. Kẻ thiếu ăn, thiếu mặc mà dám chia sẻ miếng ăn cái mặc cho người kém may mắn như mình, đó mới thực sự là bố thí.
Do đó, Vong Linh phải nhớ kỹ là, bất kỳ lúc nào, bất kỳ hoàn cảnh nào, dưới tư cách nào, giàu hay nghèo, giỏi hay dỡ, Thân Xác của Vong Linh đều có thể thực hiện Hạnh Lành Bố Thí.
Bố thí phải được hành xử với một cái Tâm chân thành, với một cái Ý cao thượng; Tâm có rung động, Ý có thiết tha thì hành động Bố Thí của mình mới thực sự có ý nghĩa. Không làm vì thị hiếu, có nghĩa là thấy người khác làm mình cũng làm theo mà không hiểu được ý nghĩa của việc mình làm; không nên làm vì danh, vì lợi mà phải là vì sự cảm thông, sự xót xa.
Người bố thí là người gieo hạt giống Từ Bi. Nhân Từ Bi sẽ đơm bông kết Quả Phúc Lành, sẽ cho ra Trái An Vui, sống đời hạnh phúc, ấm no.
Bố thí là hành động tích lũy, dành để, tiết kiệm cho một ngân quỹ trong tương lai. Dành dụm ở kiếp này để an hưởng ở kiếp vị lai.
Người bố thí không nhắc đi nhắc lại việc mình làm vì đó là hành động có tính cách khoe khoang, phô trương, ngầm nói lên với tất cả mọi người rằng tôi đã làm được việc thiện và tôi rất tự hào về hành vi đó của tôi.
Bố thí phải Ba La Mật, có nghĩa là cho như không cho, không thấy rằng mình chủ động cho. Hành động bố thí đó do Tâm Ý của mình điều khiển, thúc giục chớ không phải vì bất cứ một tư lợi nào cả, và nhất là không có sự đắn đo, cân nhắc khi bố thí.
Cúng dường cho những vị cao tăng Đạo cao, Đức trọng, tu hành chân chính là một cách tạo Phước sâu dày cho kiếp vị lai.
Hỡi Vong Linh,
Bố thí là một Hạnh Lành, là cách thức trồng sâu căn lành, là kho báu Phước Đức, nếu biết gìn giữ, luôn vun bồi thì sẽ hưởng được lâu dài, có thể kéo qua nhiều đời, nhiều kiếp.
Tuy rằng vẫn phải đối đầu với những nghiệp chướng nặng nề, chằng chịt của một kiếp người, sự bố thí đem lại niềm an ủi lớn lao là giúp cho người hành xử có được cuộc sống dễ chịu hơn qua sự cảm thông và chia sẻ những khó khăn, trắc trở với người bất hạnh. Cảnh huống cũng vẫn xảy ra, nhưng cường độ giảm bớt đi, không còn quá thương tâm, đem đến nhiều đau khổ cho người hành xử bố thí.
Có thể ví hành động bố thí như là đang dùng nia để sàng lọc bớt những viên đá sỏi nghiệp lực. Viên nào lọt được qua khỏi cái lỗ nia thì cái núi nghiệp lực sẽ vơi đi được một chút.
Nếu Hạnh bố thí đi liền với việc sửa đổi những thói hư tật xấu thì những viên đá sỏi nghiệp lực sẽ càng ngày càng nhỏ lại, như vậy sẽ giúp cho các viên đá sỏi đó dễ dàng lọt qua khỏi cái lỗ nia.
Bố thí mà luôn đắn đo, lòng vẫn luôn cao ngạo, tánh tình vẫn còn hách dịch, thiếu sự khiêm cung nhún nhường thì việc bố thí đó không thể xem như một hạnh lành, uổng cho thì giờ và công sức bỏ ra, không đem lại sự lợi lạc gì cả.
Bài Pháp hôm nay là một sự nhắc nhở Vong Linh phải luôn nhớ rằng, sửa tánh là một việc tối ư cần thiết!. Nếu Vong Linh không muốn tiếp tục trôi lăn trong vòng Sanh Tử Luân Hồi, muốn tìm về một cảnh giới An Lành, Miên Viễn ở kiếp Vị Lai, Thần Thức của Vong Linh hãy khắc cốt ghi tâm việc chỉnh sửa những thói hư tật xấu song song với việc luôn hành Hạnh Bố Thí.
Một Tâm-Ý-Tánh được chỉnh sửa tuy rằng chưa hoàn hảo nhưng có rất nhiều thiện chí và thiện ý lồng trong một Thân Xác Mới, một cuộc đời mới, một hoàn cảnh mới, một môi trường mới….cái gì cũng mới cả để làm lại từ đầu, do đó, vai trò của Thần Thức vô cùng là quan trọng. Thần Thức giúp cho Thân Xác vượt qua những cạm bẫy của cuộc đời bằng cách khơi dậy một cách mạnh mẽ cái Nền Tảng Lương Tâm mỗi khi Thân Xác muốn nhúng tay vào những việc làm sai trái có thể gây tạo nghiệp lực.
Lần hồi, cái nền tảng lương tâm đó sẽ xoay chuyển Thân Xác để chỉ hướng về một phía mà thôi, đó chính là Hướng Thiện.
Từ đó, Thần Thức của Thân Xác sẽ có cơ hội để tôi luyện phần Tâm-Ý-Tánh càng ngày càng sâu sắc hơn qua sự hướng dẫn của Vị Thiện Tri Thức đối với Thân Xác. Tâm-Ý-Tánh có rực sáng thì sự Thăng Hoa mới có cơ hội bùng phát, và Vòng Sanh Tử mới thực sự bị bứt phá.
Như vậy, có một sự hỗ tương rất là chặt chẽ giữa Thân Xác và Thần Thức. Muốn được như vậy thì Thần Thức của Vong Linh, ngay từ bây giờ, phải tích cực khắc cốt ghi tâm tất cả những Tánh Tốt để giúp cho cái nền tảng lương tâm sau này được vững mạnh, được chắc chắn, đủ sức ngăn chận Thân Xác nhúng tay gây tạo Nghiệp Chướng.
Bài Pháp đến đây là chấm dứt.
Ngày thứ 49:
Hỡi Vong Linh (Tên Họ... Pháp Danh...),
Hôm nay là ngày thứ 49, ngày tu tập cuối cùng của Thời Gian Đặc Ân 49 ngày.
Vong Linh sẽ được hướng dẫn để ôn tập lại những điều đã được chỉ dạy trong những ngày qua. Hãy ráng khắc cốt ghi tâm những điều mình học hỏi để giúp cho Thân Xác Mới của Vong Linh ở cõi Ta bà được khởi sắc hơn. Thân Xác biết tu tập, biết chỉnh sửa Tâm-Ý-Tánh thì Thần Thức mới có cơ hội giùi mài cái thực chất của mình để phát sáng Trí Huệ và Thăng Hoa.
Điều căn bản Vong Linh cần phải ghi nhớ là, chính nghiệp lực đã lôi kéo Vong Linh trở lại cõi Ta Bà. Vong Linh đã gây tạo nghiệp không lành ở cõi Ta Bà thì bắt buộc phải giải quyết nghiệp lực ngay tại cõi Ta Bà.
Những nghiệp lực mặt đối mặt (bao gồm Cha Mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cái, bà con dòng họ Nội - Ngoại của cả chồng lẫn vợ, kể luôn cả những bạn hữu thân tình), tất cả đều là Oan Gia Trái Chủ của Thần Thức của Vong Linh, họ hiện diện cùng thời để hoặc là đòi nợ, hoặc là trả nợ.
Đã biết đó là Oan Gia Trái Chủ của mình thì cũng nên đối xử hòa nhã, nhẹ nhàng mỗi khi đối diện với nghiệp lực của mình, tránh gây sân hận để không có cơ hội tạo thêm nghiệp chướng khiến cho Vốn - Lời chồng chất.
Những thất bại liên tục, hoặc những điều không hay cứ thường xuyên tiếp diễn trong bất cứ lãnh vực nào, đó là dấu hiệu cho biết Thân Xác đang đối diện với những Bài Học Nghiệp Lực. Tuy rằng Oan Gia Trái Chủ không hiện diện, nhưng Thân Xác cần phải tư duy để nghiệm ra những sai lầm hầu sửa đổi bản thân mình. Mọi điều không tốt đẹp cần phải được cải thiện để có thể chấm dứt ngay trong hiện kiếp, đừng để kéo dài qua nhiều đời nhiều kiếp vì sẽ dễ dàng trở thành một Nghiệp Lực rất nặng nề.
Muốn có cuộc sống yên lành, bắt buộc phải giải quyết nghiệp lực. Giải quyết như thế nào?
- Trước tiên là phải Sửa Tánh. Những thói hư tật xấu, những tánh tình nông nổi luôn gây tạo sự phiền phức, bực mình và đôi khi còn đe dọa đến tánh mạng của người chung quanh, cần phải triệt để chỉnh sửa.
Tự ái là đầu mối đưa đến Sân Hận, sân hận càng lên cao, nghiệp lực càng nặng nề. Do đó, trong tiến trình sửa tánh, phải biết buông bỏ tự ái xuống.
Tánh xấu bị triệt tiêu, cơ hội tạo nghiệp sẽ giảm lần.
-
Hằng ngày, đem hết sự chân thành, tha thiết để Sám Hối, Ăn Năn những nghiệp chướng của mình, sau đó thì Trì Chú và Niệm Phật; đem hết công đức của việc hành trì Sám Hối - Trì Chú - Niệm Phật hồi hướng cho các Oan Gia Trái Chủ và nguyện cầu cho họ, dù hiện diện ở bất cứ nơi chốn nào cũng đều có được một cuộc đời tốt đẹp với đủ đầy phúc lợi và hạnh phúc viên mãn.
- Cố gắng vun bồi và trau giồi những tánh tốt. Càng có nhiều tánh tốt, Thân Xác càng xa rời những việc làm sai trái, cuộc sống sẽ có ý nghĩa hơn khi Thân Xác luôn sẵn sàng mở rộng vòng tay tương trợ, cứu giúp những người kém may mắn, bất hạnh.
Có được chút ít phước đức nào cũng đều đem hồi hướng cho các Oan Gia Trái Chủ.
Tâm-Ý-Tánh càng ngày càng rực sáng, nghiệp lực cũng giảm đi cường độ quấy phá, như vậy cuộc sống sẽ thoải mái hơn, và những cảnh huống cũng bớt nặng nề, bớt thương tâm hơn.
Vong Linh phải luôn ghi nhớ điều này:
Tham - Sân - Si là 3 cái tánh được mệnh danh là Tam Độc. Ba cái tánh này đã khiến cho con người gây tạo ra vô số là Tội Lỗi. Bên cạnh đó, dây tơ rễ má của Tam Độc chằng chịt, được thể hiện qua rất nhiều tánh xấu, nhiều thói hư, khiến cho con người, khi sống thì tạo tội với người Đời, khi chết thì mang đá nặng nghiệp lực khiến cho khó lòng siêu thoát được.
Những tánh xấu sẽ đưa đến một Tâm - Ý xấu, tâm-ý bất thiện, quái dị, từ đó phát sinh ra nhiều tư tưởng kỳ quái, đen tối, ghê rợn không còn chút tình Người, không còn nhân bản, mời gọi biết bao nhiêu là biến động, thiên tai về địa lý, rồi thì dịch bệnh lan tràn lấy mất đi hằng bao nhiêu sinh mạng con người.
Do đó, Vong Linh bắt buộc phải chỉnh sửa tánh xấu, thói hư, phải biết hướng Tâm - Ý của mình về những điều tốt đẹp, cao thượng thì mới mong trở lại cõi Ta Bà với một cuộc đời an ổn, ít thăng trầm, ít sóng gió.
Cõi Ta Bà là nơi mà Thân Xác của Vong Linh học hỏi rất nhiều và cũng tranh đấu rất nhiều.
Kiến thức trên cõi đời mênh mông như trời biển, chỉ cần một chút siêng năng, ham học hỏi, là có thể thu góp làm của riêng cho cái túi học vấn của mình rồi. Học từ trường học cho đến trường đời; học từ người giỏi giang cho đến người ngu đần; học từ người lương thiện cho đến người bất lương; học từ người thành công cho đến người thất bại; học từ người giàu sang cho đến người nghèo khó….
Nói tóm lại là mỗi hoàn cảnh, mỗi môi trường, mỗi hạng người đều có những cái cho mình học hỏi để rút tỉa làm "kinh nghiệm sống" cho mình. Tất cả những gì mình học hỏi đều được khắc ghi trong Tâm Thức và làm giàu cho cái Trí Tuệ của mình. Trí Tuệ đó được tích lũy qua mỗi kiếp Người, và nếu không bị màn vô minh quá dày che phủ, Trí Tuệ đó sẽ luôn rực sáng.
Cõi Ta Bà cũng là nơi mà Thân Xác của Vong Linh phải luôn tranh đấu không ngừng. Tranh đấu cái gì? Chính là tranh đấu với bản thân mình! Một rừng tánh xấu vây phủ một thân xác mỏng manh, yếu đuối, những tánh xấu đó điều khiển, hướng dẫn thân xác đi trên những nẻo đường tối tăm, u ám, gập ghềnh.
Nếu thân xác không can đảm vùng lên để chống cự lại thì xem như suốt cả cuộc đời làm nô lệ cho những tánh xấu đó. Làm nô lệ không những ở hiện kiếp mà còn kéo dài qua một hay nhiều kiếp vị lai. Những tánh xấu này đã thúc đẩy thân xác nhúng tay vào những chuyện quấy trá, tạo nên vô số Vòng Nghiệp Lực với Đồng Loại của mình, ảnh hưởng kéo dài qua nhiều kiếp, nhiều đời, tưởng chừng như không bao giờ chấm dứt.
Trong số những dây tơ rễ má của Tam Độc Tham - Sân - Si, có 5 cái Tánh mà Vong Linh phải đặc biệt ghi nhớ nhiều nhất, đó chính là: tánh sát sanh - tánh trộm cắp - tánh nói dối - tánh uống rượu (say sưa) - tánh tà dâm. Đây chính là 5 tánh xấu căn bản làm cho con người của cõi Ta Bà đánh mất đi cái tư cách Người của mình, nếu phạm phải !
Ngoài ra, có 4 điều vô cùng tai hại phát sinh ra cũng từ Tam Độc Tham - Sân - Si, đó là: Cờ Bạc - Rượu chè - Hút Sách (Ma Túy) - Dâm Dục. Chỉ cần vướng vào một trong 4 điều này cũng đủ để khiến cho tan nhà nát cửa, thân bại danh liệt. Vong Linh phải ghi nhớ để giúp cho Thân Xác Mới của mình đừng vướng vào.
Ngoài những tánh vừa kể trên, sau đây là những Tánh Xấu mà người Đời thường hay mắc phải, dù là thuộc Chủng Tộc nào. Những Tánh này chưa phải là những Tánh cực kỳ Xấu, nhưng vẫn đủ sức khiến cho mình tạo Nghiệp dễ dàng vì nó có dính líu đến Tham- Sân- Si, dễ khiến cho Tâm - Ý mình đổi thay, vọng động, do đó mà Nghiệp Chướng phát sinh. Tránh được bao nhiêu Tánh Xấu này cũng đủ giúp cho Tâm mình An Bình, cuộc sống mình thư thả, ít lụy phiền, tạo được Hòa Khí với người chung quanh, ở kiếp Vị Lai.
Những tánh xấu cần phải tránh, bao gồm:
Tánh thị phi - Tánh ganh tị - Tánh ích kỷ hẹp hòi - Tánh thích chưởi bới - Tánh phung phí - Tánh lười biếng ù lì - Tánh thiếu thận trọng và tắc trách - Tánh tự cao tự đại - Tánh hách dịch - Tánh thiếu thành thật - Tánh thủ đoạn - Tánh ác độc - Tự ái.
Cứ một tánh xấu được triệt tiêu thì cơ hội tạo nên Nghiệp chướng được giảm đi. Càng triệt tiêu được nhiều tánh xấu, Thân Xác Mới càng được nhẹ nhàng, cuộc đời sẽ bớt chông gai, phiền muộn, đời sống Tâm Linh được cải thiện nhờ vào Thiện Duyên gặp được Thiện Tri Thức hướng dẫn để chỉnh sửa Tâm - Ý - Tánh của mình.
Cánh cửa của sự Thăng Hoa đã hé mở, chỉ cần một sự quyết tâm và can đảm diệt trừ tất cả những Thói Hư Tật Xấu, cánh cửa đó sẽ rộng mở để hân hoan tiếp đón một Thần Thức thăng hoa vừa rời bỏ báu thân.
Vong Linh đã hiểu qua về Nền Tảng Lương Tâm, bao gồm những Tánh Tốt lẫn Tánh Xấu. Có điều rằng, càng thực hành nhiều Tánh Tốt thì cái Nền Tảng Lương Tâm của Thân Xác sẽ càng rực rỡ hơn, trong khi những Tánh Xấu, nếu được thường xuyên triển khai, sẽ làm cho Nền Tảng Lương Tâm trở nên lu mờ và biến dạng.
Sau đây là những Tánh Tốt, Vong Linh cần chú tâm ghi nhớ, cần phải khắc ghi vào Tâm Thức. Khi trở lại cõi Ta Bà, chính những Tánh Tốt mới là vũ khí sắc bén giúp cho Thân Xác của Vong Linh đối phó với những Nghiệp Chướng ồ ạt đến với mình, đồng thời cũng nhờ vào những Tánh Tốt, mà việc gây tạo những NGHIỆP LỰC MỚI sẽ giảm bớt lần đi, và cũng có thể là tạo nên rất ít và không lớn lao.
Càng có nhiều Tánh Tốt thì cái Nền Tảng Lương Tâm của Thân Xác của Vong Linh sẽ càng được vững chắc hơn trong kiếp Vị Lai.
Những tánh tốt bao gồm:
Tánh biết lắng nghe - Tánh biết chia sẻ - Tánh biết tương trợ - Tánh có lòng thương người, thương loài vật - Tánh biết tha thứ lỗi lầm của người - Tánh biết nhận lỗi và nói lời xin lỗi - Tánh biết cám ơn và nhớ ơn - Tánh hiếu thảo với ông bà cha mẹ - Tánh biết trì chí nhẫn nại - Tánh biết nói lời dịu dàng, từ tốn, thương yêu, an ủi và lễ phép - Tánh biết cổ võ, khuyến khích để giúp cho một người tiến đến sự thành công - Tánh biết đối xử tốt với tất cả mọi người từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội - Tánh luôn luôn chân thật - Tánh siêng năng cần mẫn - Tánh rộng lượng - Tánh bình đẳng với tất cả mọi người - Tánh biết giữ chữ tín - Tánh khiêm tốn - Tánh trung thành - Tánh có tinh thần trách nhiệm - Tánh biết hy sinh.
Trong suốt thời gian tu tập, Vong Linh đã được cắt nghĩa rất rõ ràng, rành mạch từng Tánh Tốt lẫn từng Tánh Xấu. Ngày hôm nay, một lần nữa, Vong Linh ôn tập lại tầm quan trọng của việc sửa Tánh.
Nếu những tánh xấu, những thói hư được triệt tiêu ra khỏi Tâm Thức của Thần Thức của Vong Linh, và được thay thế bằng những tánh tốt, thì khi trở lại cõi Ta Bà, Thân Xác Mới của Vong Linh sẽ được bao bọc bởi những Tánh Tốt. Nhờ vào những Tánh Tốt này, Thân Xác Mới sẽ được cải thiện hơn về tư cách Con Người, mọi hành xử sẽ tốt đẹp hơn, Nhân Ái hơn và đắc Nhân Tâm hơn.
Nghiệp cũ thì vẫn phải trả, nhưng với những Tánh Tốt sẵn có thì việc đối đầu, việc giải quyết những cảnh huống cũng sẽ dựa trên nền tảng của những tánh Tốt, do đó mà làm dịu đi sự hung hăng của Nghiệp Lực. Những Tánh Xấu đã bị triệt tiêu, sẽ không thể nào tiếp tay với Nghiệp Lực để mà quậy phá, làm cho cuộc sống của Thân Xác Mới gặp nhiều khó khăn.
Khi Thân Xác Mới có được nhiều Tánh Tốt, cứ mỗi lần Thân Xác làm được việc tốt đẹp, đem lại lợi lạc cho Người thì Tâm Thức sẽ sáng rực lên. Càng có nhiều Tánh Tốt khởi sắc, Tâm thức càng sáng lên, ngọn đèn Trí Huệ lóe sáng, giúp cho Thân Xác nhận định được điều Đúng hay Sai trong việc giải quyết những khó khăn trong cuộc sống.
Chúc mừng Vong Linh đã hoàn tất việc tu tập một cách tốt đẹp!! Mong thay những lời Pháp giúp được cho Thần Thức của Vong Linh chỉnh sửa lại Tâm - Ý - Tánh, chuyển hóa được cuộc đời của kiếp kế tiếp, giúp cho Thân Xác mới có được chút ít Trí Huệ để dễ dàng nhận định cách đối phó với Nghiệp Lực sao cho đúng cách và thật công bằng.
Ròng rã suốt 49 ngày, Vong Linh đã hành trì nghi thức Sám Hối - Trì Chú - Niệm Phật, điều này giúp cho Vong Linh gieo một Duyên Lành khi trở lại cõi Ta Bà, đó là có cơ hội gặp được Thiện Tri Thức giúp đỡ cho tu tập, gần gũi với Phật Pháp nhiều hơn; cánh cửa Thăng Hoa rộng mở cho những người hết lòng tu tập, chân chính tu tập, một mai khi bỏ báu thân, Thần Thức ung dung tự tại về an trụ ở nơi mình mong muốn.
Nhờ có câu Trì Chú - câu Niệm Phật mà Thần Thức của Vong Linh sẽ có được chút ít Trí Huệ giúp cho Thần Thức không quên hẳn những gì mà mình đã được chỉ dạy, được học hỏi trong suốt thời gian đặc ân 49 ngày. Dù rằng màng màng nhớ lại, nhưng, một hành động sai lầm, một tư tưởng thiếu chính chắn sẽ khiến cho Thân Xác chùn tay và suy nghĩ lại.
Xin chúc cho Thần Thức của Vong Linh có được một cuộc đời tốt đẹp, nhiều thuận lợi trong Thân Xác Mới.