Lúc còn sống, vong có ý xem thường một người nào đó, nhưng nay thì chính người đó lại làm chủ lễ siêu độ cho vong, như vậy có gây sự khó khăn gì cho người chủ lễ trong việc giảng dạy, dẫn dắt cho vong không?
Một người khi còn sống, tỏ vẻ khinh khi kẻ khác, điều đó nói lên rằng: người ấy mang nhiều tánh xấu, đưa đến việc khinh người này, trọng người kia; thương kẻ này, ghét kẻ nọ v.v... Khi người đó đã qua đời rồi, chỉ với cái thần thức thôi, cũng khó lòng thể hiện được cái tánh xấu đó, dù rằng nó vẫn còn tiềm tàng nơi thần thức.
Tu tập chân chính là phải sửa tánh, sửa tánh và sửa tánh. Để chi? Để cho tất cả những tánh xấu mà mình đã sửa đó, không còn vướng bận vào trong thần thức nữa. Thần thức sẽ không còn mang những tánh xấu đó đi theo, nó rất là nặng nề.
Phải biết rằng, chỉ cần mang một tánh xấu thôi, thần thức cũng đã phải lê lết rồi, huống chi là có quá nhiều tánh xấu, thần thức sẽ rất nặng nề như đeo đá vậy.
Cho nên, nếu một người dù chưa biết tu tập, nhưng biết sửa đổi tánh của mình, biết dung bồi những tánh tốt, và sửa cho hết những thói hư, tật xấu của mình, khi người đó bỏ báu thân, thì cũng đỡ mang cái gánh nặng trên vai của mình.
Một người đã trở thành một vong linh, tánh xấu tuy rằng vẫn còn tiềm tàng, nhưng biểu lộ cái tánh đó, cái vong không biểu lộ được. Nếu người chủ lễ là một người tu tập chân chính, là một người có đạo lực, tự họ đã có một hào quang bao chung quanh, mắt thường không nhìn thấy được, nhưng vong linh nhìn vào đã nhận ra được, và biết rằng: không thể nào khinh miệt được người này. Cái tánh xấu ngã mạn của vong linh khi còn sống, đã ngăn chận cái nhãn căn, khiến cho không nhìn thấu triệt được cái hào quang bao chung quanh người bị miệt thị. Trước hào quang chói chang của vị chủ lễ, vong linh rất sợ hãi, bắt buộc phải kính phục và nghe theo lời của vị chủ lễ.
Bên cạnh đó, câu thần Chú CA SA THA PHA giúp cho người chủ lễ, nếu việc tu tập của họ còn kém, thì cái hào quang yếu ớt của họ sẽ rực rỡ hơn; nếu một người tu tập lâu năm, chân chính, có đạo lực, hào quang phát sáng, câu Chú kia sẽ làm cho hào quang rực lửa lên, khiến vong nhìn vào phải có một sự kính phục và nghe theo.
Khi nói chuyện với vong, nếu người chủ lễ biết rõ ràng vai vế, thứ bậc của vong linh, cách xưng hô lúc sống như thế nào, khi chết cũng sẽ y như vậy.
Đây chỉ là một cách để biểu lộ cái tình thân, cho vong linh thấy rằng, đây chính là người thân của mình nói chuyện với mình, và người thân của mình đứng ra lo lắng cho mình.
Cho nên, muốn sử dụng cách xưng hô như khi còn sống, việc đó không sao cả. Tuy nhiên, nếu chủ lễ là một người không thuộc trong gia đình của vong linh, không quen biết, nhưng người đó đem tấc dạ chân thành của mình để giúp siêu độ cho vong linh, người chủ lễ đó có thể nói chuyện với vong linh xưng Tôi và gọi Vong Linh, Hương Linh gì cũng được cả.
Việc một người bị chết oan, việc đó cũng ít xảy ra, nhưng vẫn có, chớ không phải là không có.
Chết oan có nghĩa là chết trước cái thọ mạng của mình. Vấn đề này cũng rất khó diễn tả, vì có đôi khi, thoạt xem qua thì cho là chết oan, nhưng thật sự ra thì không oan.
Thường thì một người, nếu thật sự chết oan, sẽ có sự báo mộng của người đó cho thân nhân là mình bị chết oan.
Người thật sự bị chết oan hay người qua đời một cách đột ngột, đều cùng giống nhau ở một điểm, đó là: họ mang cái SÂN trong người và một cảm giác SỢ HÃI.
Người chủ lễ phải giải thích để vong linh hiểu được rằng, tất cả những cảm giác tức tối, giận dữ, sợ hãi đó, vong linh cần phải buông xuống, buông bỏ để được nhẹ nhàng. Tiếng nói là “chết oan” nhưng vẫn có dính líu đến một nghiệp lực, chớ không phải không có đâu!
Dù chết một cách đột ngột, cũng vẫn là do ở sự hoạt động bất bình thường của cơ thể, chớ không phải tự nhiên mà chết. Chỉ trừ một trường hợp duy nhất, xảy ra cho người tu tập cao dày, việc ra đi của người này cũng rất là nhanh. Thật sự ra, thọ mạng của người ấy cũng đã chấm dứt, nhưng vì được đặc biệt “Tiếp Dẫn,” nên việc ra đi trở thành đột ngột.
Tóm lại, những cái gì gọi là cảm giác xấu, xảy đến cho một người trước khi hắt hơi cuối cùng, vị chủ lễ đều khuyên vong linh phải buông xuống hết. Và sau đó, nghi thức siêu độ cũng đều y như nhau. Nhưng đặc biệt trong phần giảng Pháp, phải giảng cho thần thức đó hiểu được rằng, Sân Hận là điều không nên giữ, và phải nên buông bỏ tất cả những điều làm cho mình bực dọc, nặng nề trước khi nhắm mắt. Cần phải bỏ xuống hết, để có được sự nhẹ nhàng mà cất bước ra đi.
Riêng đối với những người được nghi ngờ là chết oan, người chủ lễ hoặc thân nhân phải tu tập thật là nhiều để hồi hướng lại cho những vong linh đó. Xem như là một sự đền bù, cho khoảng thời gian mà vong linh đó còn hưởng được sự sống trên dương thế, để bù đắp lại cho vong linh đó, để cho hướng đi của họ được dễ dàng hơn, và coi như họ sẽ mang được nhiều công đức đi theo họ về một cảnh giới mới.
Một người đã đi đến quyết định tự tử, hành động đó nói lên được rằng: bản thân người này đã mang quá nhiều uẩn khúc trong lòng. Người này xa lìa trần thế, kéo theo một toa xe nặng trĩu SÂN HẬN, nặng trĩu KHỔ ĐAU, ngập tràn NƯỚC MẮT, đầy dẫy OÁN HỜN. Chỉ có thân nhân ruột thịt, hay bạn bè thâm giao, mới có thể thấu hiểu được một phần nào nỗi đau đớn, vày vò của người quá cố, khi họ còn tại thế; và nguyên nhân nào đã khiến cho người này tự kết liễu cuộc đời mình.
Do đó, thân nhân hãy tự mình, đem hết Tâm Thành, đem hết Tình Thương Yêu sâu đậm để siêu độ cho người quá vãng, không nên nhờ ai hết!
Chỉ có thân nhân mới giao cảm được với vong linh và giúp cho vong linh thoát được địa ngục do chính mình tạo ra. Người tự tử mang theo biết bao nhiêu nghiệp lực chưa thanh toán xong, chính những nghiệp lực này, tạo thành một địa ngục kiên cố, bao chặt lấy vong linh, do đó, việc vong linh thác sanh trở lại kiếp Người, không phải là việc đương nhiên đâu!
Muốn cho vong linh trở lại cõi Người, thân nhân phải giúp đỡ cho vong rất nhiều, kể cả công sức của chính vong linh nữa thì mới được.
Trong suốt 49 ngày, mỗi ngày thân nhân phải thỉnh vong về để cùng làm lễ Sám Hối, vì chỉ có sám hối mới làm cho tiêu bớt nghiệp chướng mà thôi. Sau đó thì trì Chú, niệm Phật và sau cùng là giảng Pháp.
Lời Pháp sẽ giúp cho vong bừng sáng, nhận ra những điều sai trái của mình, vong xả bỏ những sân hận, phiền não, chăm lo tu tập, vong được nhẹ nhàng cất bước tìm đường thác sanh.
Tuy nhiên, không thể mong mỏi một cuộc đời sắp tới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn đâu.
Vong từ cảnh giới địa ngục, bước qua được cảnh giới Người, là một việc đòi hỏi rất nhiều sự chân thành hết dạ sám hối ăn năn. Muốn nguyện cầu cho vong có sự an bình, ít phiền não trong kiếp vị lai và nhất là được sanh ở một nơi có Phật Pháp, gặp được Thiện Tri Thức để dẫn dắt tu tập, việc đó trông chờ rất nhiều… rất nhiều vào công năng tu tập của chính thân nhân, đem công đức tu tập của mình, đem hạnh bố thí của mình mà hồi hướng cho vong linh, cả hai đều cùng lợi lạc cả.
Thân nhân nên chịu khó đọc các bài Pháp trên trang nhà LacPhap.com nói về: Nhân Quả, Nghiệp Lực, Tự Ái, Tham Sân Si, Nghiệp Chướng Nền Tảng, Địa Ngục Của Mỗi Chúng Sanh … để có đủ ý tưởng mà nói chuyện với vong linh, khuyên giải vong linh xả bỏ tất cả phiền não, sân hận và thành tâm sám hối, trì Chú, niệm Phật, để cho được nhẹ nhàng, mới có thể siêu thoát được.
Với một tình yêu thương sâu đậm, dạt dào dành cho người quá cố, thân nhân đem hết tình cảm thiết tha đó để vào từng lời khấn nguyện, từng lời Kinh sám hối, từng lời khuyên tha thiết, để hương linh sớm nhận chân ra được những điều lầm lỗi của mình khi còn sống, hương linh sẽ chân thành sám hối ăn năn, thần thức rung động, hương linh sẽ nhẹ nhàng cất bước.
Trong phần giảng Pháp cho hương linh, thân nhân sẽ lần lượt đề cập đến những điểm sau đây:
-
Tự tử là một hành động gây tạo bởi Nhân và Quả.
Trong quá khứ (tiền kiếp), một người đã gây tạo nhiều sân hận, nhiều đau khổ cho kẻ khác, đã khiến cho kẻ đó phải rơi lệ, phải uất ức và nhất là không biện bạch được, cho đến nỗi kẻ đó phải dùng cái chết của mình để minh bạch nỗi oan tình.
Cái Quả nhận được ngày hôm nay, cho người đã gây tạo một cái Nhân không lành trong quá khứ, là đón nhận hết tất cả những nỗi đớn đau mà mình đã từng áp đặt lên kẻ khác. Mình cũng lại được nếm cái hương vị đắng cay của việc “có miệng mà chẳng thốt nên lời,” đưa đến một sự uất ức vô cùng cực, dẫn đến việc hủy hoại mạng sống của mình.
-
Tất cả những cảnh huống mà người quá cố đã gặp phải, đã đối diện, đều là kết quả của việc người này đã gieo đau khổ cho kẻ khác trong quá khứ.
-
Cái Nhân không lành mà người quá cố đã gieo trong quá khứ, đã tạo nên một nghiệp không lành, đó chính là Nghiệp Sát trong quá khứ.
Tuy rằng người này không trực tiếp giết hại người, nhưng những điều mà họ gieo rắc cho kẻ khác, đã khiến kẻ đó tức tưởi mà Tự Sát. Trách nhiệm đó, người này vẫn bắt buộc phải gánh vác.
-
Việc dễ dàng làm đau đớn kẻ khác, xuất phát từ cái Tánh Ngã Mạn, thiếu Từ Bi, thiếu sự Để Tâm và Bất Cần. Chính cái Tánh quá lẫy lừng đó trong quá khứ, đã trở thành tập khí cho cuộc đời ngày hôm nay, lúc nào cũng chiêu cảm những nghiệp không lành, đem đến nhiều nghịch duyên cho người quá cố.
-
Chính cái Nhân không lành của quá khứ đã tạo nên một TỰ ÁI xoay quanh sự khổ đau, sự oan ức, sự dễ sân hận, dễ bực tức … Bất kỳ một hành động, một sự việc gì có liên quan đến những điều trên, sẽ khiến cho TỰ ÁI nổi lên và người quá cố sẽ vô cùng tủi thân và nghĩ ngay đến cái chết.
-
Người tự tử phải hiểu rõ tư cách của người sống trên dương thế.
Phải nhận chân ra rằng, việc được làm Người là một duyên rất lớn, không thể tự ý hủy bỏ cuộc đời mình, chỉ vì mình nhận được trái không ngon, không ngọt, không tốt đẹp. Từ chối quyền sống của mình, là một hành động không được chấp nhận trên phương diện Bổn Phận và Trách Nhiệm buộc ràng với Gia Đình, với Xã Hội, với Quốc Gia.
Giữa người quá cố và con cái vẫn còn một nghiệp lực chưa thanh toán xong.
Giữa người quá cố và những người quen biết khác vẫn còn oan trái chưa giải quyết xong.
Tự tử là một hành động trốn nợ, nhưng chắc chắn rằng vẫn không trốn được mà trái lại, vốn lời chồng chất, nợ càng lên cao.
Người quá cố gặp quá nhiều cảnh huống trong cuộc Đời, đó chẳng qua là vì người này có quá nhiều nghiệp lực cần phải thanh toán.
Người quá cố tưởng rằng tự tử là phủi tay, là rảnh hết nợ đời, nhưng không phải thế, nghiệp lực không trả được ở kiếp này thì cũng phải trả ở kiếp vị lai, không trốn đâu cho được cả. Chỉ e rằng bổn cũ soạn lại, thì phải mất thêm một kiếp người nữa, cứ đi vòng lẩn quẩn, không bao giờ chấm dứt.
Nếu thân nhân cảm thấy rằng, mình cũng đã góp một phần vào việc gây tạo nỗi đau buồn cho người quá cố, điều tốt nhất là nên đối trước bàn thờ của vong linh, thành tâm, thành ý, hết dạ ăn năn, cầu xin lời tha thứ. Vong linh xả bỏ nỗi ưu phiền, làm nhẹ một phần nào gánh nặng mang theo.
Cố gắng giúp cho vong linh sám hối và phát nguyện tu tập, như thế mới có thể xóa được cái địa ngục mà vong sẽ phải thọ lãnh sau 49 ngày.
Nên nhớ: 49 ngày là thời gian đặc ân dành cho vong linh, nương vào sự thành tâm sám hối, tu tập để hoán chuyển cảnh giới. Cho nên, thân nhân nên giúp cho hương linh hoán chuyển từ cảnh giới Địa Ngục qua cảnh giới Người. Đó cũng là một cách để thân nhân tỏ rõ tình thương sâu đậm của mình, sự quan tâm, sự chăm sóc đến người quá cố.
Nói chuyện giảng Pháp cho vong linh nên chậm rãi, lặp đi lặp lại, vì vong linh không còn ngũ căn, nên không thể lãnh hội nhanh được.
Địa Ngục
Nếu một vong linh, nhờ một duyên may nào đó, chợt hiểu ra rằng, do mình đã gây tạo ra điều không lành, nên bị đọa vào địa ngục, tức khắc Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ hiện đến. Ngài giúp cho vong linh đó 3 cơ hội để báo mộng cho thân nhân, hoặc người quen biết nào, có khả năng giúp cho vong được siêu thoát.
Trong trường hợp này, không làm chay siêu độ cho vong linh như người mới mất đâu. Thân nhân của vong linh đó cũng phải đem hết tất dạ chân thành, lòng thương yêu tha thiết đặt vào một Tâm Lực vững mạnh, nếu người đó không biết tu tập.
Thân nhân biết tu tập thì Đạo Lực của họ phải hợp với Tâm Lực, sẽ nhân danh vong linh đang ở trong địa ngục, mà sám hối một cách chân thành tha thiết.
Sám Hối là điều vô cùng … vô cùng quan trọng, không cần lời Kinh, chỉ cần lời sám hối chân thành.
Và cũng trong 49 ngày, tha thiết sám hối và tu tập, giữ giới, phát nguyện trường chay, vì hương linh đang bị đọa đày đó mà tu tập, và hồi hướng cho hương linh đó. Đồng thời cũng phải giảng Pháp cho vong linh nghe. Vong linh không thể nào về theo như mình triệu thỉnh được, nhưng những lời người chủ lễ nói ra, vong linh vẫn cảm nhận được. Sự tha thiết, sự chân thành của người chủ lễ sẽ khiến cho vong linh hiểu được và rung động, địa ngục tức khắc sẽ tiêu tan, khi đó, hương linh sẽ được ung dung tự tại ra đi theo nghiệp kế tiếp của mình.
Hai nghi thức này thật ra đều giống nhau vì cùng có chung phần sám hối, tuy nhiên, vong đang ở địa ngục thì không thể triệu thỉnh được và cũng không có phần vật thực, chỉ có Pháp thực mà thôi.
Cảnh giới lang thang vất vưởng là cảnh giới mà vong bị đọa, không thoát ra được. Đó cũng chính là địa ngục của vong linh.
Nếu người chủ lễ, trong giấc mộng thấy được người thân, hay người quen biết của mình ở trong cảnh giới lang thang vất vưởng, thì phải hiểu rằng: vong linh đang bị đọa địa ngục và khi siêu độ cho vong linh sẽ không thể nào triệu thỉnh vong linh về được.
Triệu thỉnh chỉ được đối với vong vừa mới mất, còn trong thời hạn 49 ngày mà thôi.
Vong đã mất lâu rồi thì không thể triệu thỉnh được đâu!
Điều đáng ghi nhận là, chỉ có vong mới mất (còn trong thời hạn 49 ngày), là mới có thể hoán chuyển từ ở kiếp đọa đày này bước sang cảnh giới khác.
Nếu trung ấm thân báo cho biết rằng vong bị đọa đày,[1] nhưng nhờ sự giúp đỡ chân thành của người chủ lễ, cũng có thể khiến cho vong từ đọa đày tiến lên cảnh giới Người hay cảnh giới Trời.
Vong đã bị đọa lâu trong địa ngục, tức là thời gian đặc ân 49 ngày đã qua rồi, sẽ không thể nào hoán chuyển cảnh giới được. Thân nhân của người chết phải hiểu rõ, đó là điều rất quan trọng! Muốn làm bất kỳ điều gì giúp cho vong, phải trong vòng 49 ngày. Quá 49 ngày thì phải theo một nghi thức siêu độ khác và với nghi thức đó, khi vong đã cảm nhận được rồi, vong sẽ theo nghiệp kế tiếp của mình mà đi. Không thể nào nói rằng có thể hướng dẫn cho vong về cõi Trời hay cõi Phật được.
Ngạ Quỷ
Có những người tự bản chất của họ, luôn luôn, lúc nào cũng Sân Hận, mang một nỗi Sân Hận triền miên, không tháo gỡ được. Cái Sân Hận đó, hoặc là do ở tánh Sân của người đó không sửa đổi, hoặc là do họ bị vướng mắc vào một việc nào đó khiến họ phải Sân; cái độ Sân đó rất là cực mạnh. Khi họ hắt hơi, chắc chắn rằng họ bị thác sanh vào Ngạ Quỷ. Ngạ Quỷ hay Súc Sanh cũng vẫn là một cái “địa ngục.”
Thần thức nằm trong Súc Sanh tối mò mò, không nhìn thấy được bất kỳ một hướng đi nào cả. Thần thức ở trong Ngạ Quỷ vẫn còn sáng hơn loài súc sanh, nhưng bị lôi kéo bởi cái Sân. Cái Sân đó phải nói là một cái Sân không diễn tả được. Cho nên thần thức cũng không nhận ra được rằng, mình phải làm như thế nào để thoát được cái lốt Ngạ Quỷ mà mình đang mang. Đó cũng là địa ngục của mình! Thần thức ở trong Ngạ Quỷ phải làm sao để hạ cái Sân xuống, làm cho tiêu lần cái Sân đi.
Muốn hạ cái Sân, bắt buộc phải dùng ngọn đèn Trí Huệ để đốt nó; mà muốn có ngọn đèn trí huệ thì phải làm sao?
Phải sám hối, sám hối rất là nhiều!
Một người Sân Hận, khi còn tại thế, rất dễ dàng làm chuyện sai lầm, vì quá Sân nên không nhận chân ra được rằng, mình đã làm chuyện này sai, mình đã làm chuyện kia sai, và đã tạo ra quá nhiều nghiệp chướng với kẻ khác. Cho nên, việc đầu tiên là phải sám hối, cực kỳ sám hối!
Người chủ lễ muốn giúp cho một thần thức đọa Ngạ Quỷ, phải đem hết tâm lực của mình, thậm chí đến khóc được để sám hối giùm cho thần thức đó. Khi đã sám hối rồi, phải trì Chú và niệm Phật để cho thần thức đó được sáng lên … sáng lên, để đốt được lửa Sân. Dùng lửa Trí Huệ của câu Chú và lời niệm Phật để đốt ngọn lửa Sân.
Sau cùng là giảng Pháp cho thần thức nghe, phải xoay quanh vấn đề Sân Hận rất … rất là nhiều. Phải giúp sao cho thần thức đó bỏ xuống cái sân hận. Nếu người chủ lễ biết được tâm tình của người đã mất thì rất là tốt, rất là dễ dàng để khuyên lơn thần thức đó. Còn nếu không biết được, việc giảng Pháp phải xoay quanh vấn đề Sân Hận, vấn đề Tâm Bình. Phải bỏ cái sân hận xuống, giữ cho được tâm bình, và phải giảng về vấn đề Nghiệp Lực. Chính vì cái sân hận mà thần thức đó khi còn sống đã tạo quá nhiều nghiệp chướng. Cũng phải nói về Tâm – Ý – Tánh, vì cái tánh sân hận, cho nên cái tâm không lành, nảy sanh các ý tưởng hại người, do đó phải sửa đổi.
Tóm lại là phải giúp thần thức ở trong cái lốt Ngạ Quỷ đó tu tập, như vậy mới thoát ra khỏi cái lốt Ngạ Quỷ của mình được.
Phân biệt: Vong bị đọa địa ngục – vong lang thang – vong không siêu thoát.
Vào phút lâm chung, nếu hơi ấm cuối cùng tụ vào 2 bàn chân, đó là dấu hiệu cho biết thần thức sẽ bị đọa vào Địa Ngục. Nếu không được siêu độ đúng cách, sau 49 ngày, vong linh sẽ theo đúng nghiệp đọa địa ngục của mình mà đi.
Nghiệp lực nào khởi sắc nhất, mạnh mẽ nhất trong tất cả nghiệp lực của vong linh, sẽ hiện ra địa ngục, với vô số khổ đau có liên quan đến nghiệp lực đó. Vong linh sẽ chịu những đọa đày trong cái địa ngục Nghiệp Lực của chính mình tạo nên.
Những vong lang thang cũng vẫn là bị đọa vào Địa Ngục Lang Thang của họ.
Nếu vong linh không bị đọa Tam Đồ, nhưng không được siêu độ đúng cách để đi đúng cảnh giới, vong linh không siêu thoát được, bỗng nhiên trở thành vất vưởng, giống như người không nhà vậy. Họ cứ lẩn quẩn mà không biết phải đi về đâu. Họ không thể nào tìm được hướng đi đúng.
Đó là những vong linh, phải nói một cách rõ ràng rằng, bị đọa đày một cách oan uổng. Đúng lý ra họ cũng dễ dàng siêu thoát, nhưng vì thiếu sự dẫn dắt, nên bỗng dưng trở thành vất vưởng, nay đây, mai đó.
Giúp cho vong linh tu tập, người của cõi Ta Bà sẽ bớt được tánh hung hãn và sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Một vong linh được dạy dỗ đúng mức, được chỉ vẽ tận tường tất cả mọi việc, đúng sai phải trái, nên hay không nên, sẽ rất lợi lạc cho thân xác mới mà vong linh thác sanh vào. Cho nên, giúp đỡ cho vong linh, là giúp đỡ cho người trên Dương Thế được tốt đẹp hơn!
Súc Sanh
Ở vào phút lâm chung, trên thân thể của người quá cố, nếu hơi ấm cuối cùng tụ vào ở hai đầu gối, thân nhân có thể đoán biết rằng người này bị đọa vào SÚC SANH.
Nếu việc siêu độ trong 49 ngày không được hành trì đúng cách, vong linh đó sẽ theo nghiệp đọa Tam Đồ của mình mà đi.
Vong linh bị đọa vào SÚC SANH, chắc chắn rằng có dính líu rất nhiều đến chữ Si, cho nên trí huệ gần như tối đen, vô phương vùng vẫy. Thần thức của vong linh đó cảm nhận được hết tất cả những sự ràng buộc, sự đau khổ, sự sợ hãi, sự khó khăn của con vật đang dung chứa thần thức đó.
Rồi thì con vật mãn kiếp, thần thức thoát ra ngoài, nếu kiếp đọa đày chưa chấm dứt, thần thức lại bước vào một con vật khác, đúng với lời Kinh Địa Tạng đã nói: “địa ngục này hoại thì bước vào địa ngục khác.”
Thân xác của con vật chính là cái địa ngục giam cầm thần thức đó. Có điều rằng: một thần thức ở trong cái địa ngục của chính mình, vẫn còn dễ thở hơn là ở trong cái địa ngục là một súc sanh.
Bị đọa Địa Ngục hay Ngạ Quỷ, còn có thể báo mộng cho thân nhân được. Thần thức đã ở trong súc sanh rồi thì vô phương, không làm gì được hết, vì chung quanh là một màu tối đen, thần thức không biết được gì hết, khó lòng báo mộng!
Người sống phải làm sao đây khi không biết được rằng thân nhân của mình có SIÊU THOÁT được hay không?
Các trường hợp sau đây cần phải ghi nhận:
A. Nếu hơi ấm sau cùng tụ lại ở hai đầu gối của người vừa mãn phần, tức là dấu hiệu bị đọa súc sanh.
Thân nhân phải nỗ lực siêu độ trong suốt 49 ngày đặc ân này.
Dù biết tu tập hay chưa tu tập, chính thân nhân phải nên đem hết Tâm Lực, Tâm Thành của mình để siêu độ cho vong linh, giúp cho vong linh dốc lòng tu tập, đặc biệt là sám hối thật nhiều, thật tha thiết.
Khi giảng Pháp, chú trọng nhiều về NHÂN QUẢ, về THAM - SÂN - SI, về NGHIỆP LỰC; nhấn mạnh đến sự MÊ ĐẮM của vong linh khi còn sống, đưa đến việc hủy hoại đi Trí Huệ của mình và gây tạo quá nhiều nghiệp chướng.
Sự tận tâm, tận lực của người chủ lễ trong suốt thời gian 49 ngày siêu độ, có thể giúp được cho vong linh thoát khỏi cảnh giới súc sanh (còn trong thời gian 49 ngày đặc ân, làm đúng theo nghi thức siêu độ).
B. Biết được rằng vong linh bị đọa súc sanh (qua dấu hiệu của hơi ấm cuối cùng), nhưng đã qua 49 ngày rồi, tức là thời gian đặc ân để hoán chuyển cảnh giới không còn nữa.
Nếu muốn siêu độ cho vong linh này, vị chủ lễ cũng phải đem hết Tâm Thành, làm tất cả nghi thức siêu độ, chỉ trừ có phần nhập vị, phần triệu thỉnh và cúng cơm cho vong linh. Bàn thờ vong vẫn phải có với hình của vong linh để người chủ lễ dễ dàng quán tưởng khi giảng Pháp.
Người chủ lễ sẽ vì hương linh mà sám hối, vì hương linh mà trì Chú, vì hương linh mà niệm Phật, và cũng vì hương linh mà giảng Pháp để giúp cho cái tối đen ở trong súc sanh đó được sáng lên, bật ngọn đèn Trí Huệ để thần thức đó thấy được mờ mờ sự vật chung quanh mình, nhưng vẫn không thể thoát ra được, còn phải chờ cho tới khi con vật đó chết đi (vì nó có thời gian sống của nó), thì thần thức mới thoát ra được.
Khi đã thoát ra khỏi thân xác của súc sanh, thần thức đó thay vì tối mò như người mù, không thấy đường đi, thì bây giờ, nhờ việc siêu độ mà thần thức đã thấy mờ mờ con đường mình đi rồi. Những vướng mắc mà thần thức đã lôi kéo theo, cũng được nhẹ nhàng, nhẹ nhàng buông bỏ xuống. Thần thức biết được rằng: tôi sẽ phải đi về hướng nào để tìm chỗ thác sanh.
Khi hành trì việc siêu độ cho thần thức ở trong súc sanh, người chủ lễ chỉ cần khấn tên họ, ngày tháng năm sanh, ngày tháng năm mất, bao nhiêu tuổi (lúc mất). Mỗi lần làm lễ, đều kêu tên họ của thần thức.
Thí dụ:
- Thần thức Nguyễn Văn A hãy cùng chủ lễ sám hối, tha thiết chân thành sám hối những tội của mình…
- Thần thức Nguyễn Văn A hãy cùng chủ lễ trì Chú, nhất tâm trì Chú để đốt sáng lên ngọn đèn trí huệ của mình.
- Thần thức Nguyễn Văn A hãy cùng chủ lễ niệm Phật, thành tâm niệm Phật, một lòng quy hướng Phật, cầu xin Phật thương xót phóng hào quang tiếp dẫn thần thức mau thoát kiếp đọa tam đồ…
- Thần thức Nguyễn Văn A hãy lắng nghe lời giảng Pháp, thâm nhập lời Pháp, trí huệ bừng sáng mới mong thoát khỏi tam đồ.
Tuy rằng ở trong súc sanh, toàn một màu đen tối, thần thức vẫn rung động, vẫn giao cảm được với người chủ lễ, nếu vị này hết dạ chân thành, mong muốn giúp đỡ cho thần thức thoát được sự đọa đày và sáng suốt nhận ra được hướng đi kế tiếp của mình.
Khi giảng Pháp, nên đặt hình của vong linh ở trước mặt để dễ dàng quán tưởng, cứ nhìn hình mà giảng Pháp, mà nói chuyện, y như nói với người còn sống vậy.
Người bị đọa vào trong Súc Sanh, nguyên nhân chánh yếu chính là Mê, từ đó kéo đến chuyện Si, tức là không còn cái trí huệ nữa. Cái Mê nơi đây là một sự đắm chìm vào những điều không đúng, không tốt.
Thí dụ: mê cờ bạc, mê sắc dục, mê tiền, mê danh lợi, mê rượu chè, mê hút sách, v.v…
Những điều làm cho con người càng ngày càng lụn lần, càng nặng nề, không vượt lên cao được. Từ cái Mê mới đưa đến cái mù quáng, cái mù quáng đó là gì? Chính là làm mà không suy nghĩ, làm mà không hiểu rằng tại sao mình làm. Tức là đi đến cái Si.
Khi giảng Pháp cho một thần thức nằm trong Súc Sanh, phải cắt nghĩa cho thần thức đó biết được cái lỗi lầm của mình lúc còn sống, là mình đã quá đắm chìm vào trong những điều không đúng. Mà những điều không đúng đó xuất phát từ đâu? Nó xuất phát từ ở cái Dục. Dục Lạc quá nhiều, không phân biệt được cái Dục nào cần thiết cho sự tăng tiến của mình và những cái Dục nào làm cho mình càng ngày càng lụn bại. Chính cái Dục Lạc đó đã khiến cho mình trở thành một con người, không còn cái tư cách của một con người nữa. Việc mê đắm dục lạc đã đưa mình đến chỗ tâm trí không còn sáng suốt, đầu óc tối đen, giống như người bị mất đi căn thức, thân thể cử động nhưng không có căn thức, sẽ không khác gì một người máy, chỉ biết cử động mà không có sự suy nghĩ. Cho nên tất cả mọi thứ đều rơi vào một lỗ hổng tối đen.
Dục Lạc tự bản thân nó không có xấu.
Đơn cử một thí dụ sau đây:
Mọi người trong gia đình đều muốn có một cuộc sống thơ thới, êm ả, cho nên tự tiết giảm cái Dục riêng của mình, để tạo nên cái Dục Lạc chung cho tất cả mọi người trong gia đình. Đó chính là việc tạo dựng một Hạnh Phúc. Hạnh phúc gia đình chính là một Dục Lạc.
Tại sao gọi nó là Dục Lạc?
Từ ngữ Hạnh Phúc diễn tả sự mong muốn đem lại niềm An Lạc, sự thoải mái, dễ chịu cho tất cả mọi người. Cái Dục Lạc đó là một cái Dục Lạc chấp nhận được!
Nếu cũng là Hạnh Phúc, nhưng chỉ cho riêng bản thân mình, mà bất cần sự đau khổ của kẻ khác, thì cái hạnh phúc đó vẫn không chấp nhận được.
Người Si Mê luôn luôn nghĩ đến bản thân mình, họ hành sử rất nhiều hai chữ Dục Lạc, nhưng chỉ riêng cho bản thân mình, mà không hề nghĩ đến kẻ khác.
Dục Lạc mà chỉ nghĩ cho riêng bản thân mình, sẽ dễ dàng biến thành ra Si Mê. Một người đắm chìm trong Si Mê, Trí Huệ chẳng những bị lu mờ, mà còn tắt hẳn luôn ngọn đèn Trí Huệ. Vì vậy mà Tâm thức không còn sáng nữa. Khi Tâm thức không còn sáng, làm sao có thể phân định được việc đúng hay việc sai, việc nên hay không nên? Chỉ làm như cái máy, làm để thỏa mãn cái Dục Lạc của mình, cái Hạnh Phúc cho riêng bản thân mình. Vì vậy, cái bản chất đó, cái tính cách đó, đã khiến cho người này tạo biết bao nhiêu nghiệp chướng và sẽ phải nếm biết bao nhiêu bài học trong tương lai.
Giảng Pháp cho một thần thức nằm trong Súc Sanh là phải giảng cho thật kỹ càng hai chữ Si-Mê, phải nói rất nhiều về Lục Dục Thất Tình (hỷ, nộ, ái, ố, ai, bi, dục lạc), vì Dục Lạc nằm trong Lục Dục Thất Tình. Và chắc chắn rằng, thần thức này cũng phải được biết qua về Nhân Quả, về Nghiệp Lực và về cái Tánh của mình. Mà nói về cái Tánh là luôn luôn dính liền với cái Tâm và cái Ý. Không có bất kỳ một thần thức nào bị đọa vào Tam Đồ, mà không có liên quan đến Tâm – Ý – Tánh.
C. Hoàn toàn không biết được thân nhân mãn phần của mình có siêu thoát được hay không và đã thác sanh về đâu?
Nếu người còn sống chí thành tu tập, làm muôn điều tốt đẹp, hằng ngày đem công đức tu tập của mình, đem phước huệ của mình thu thập được, hồi hướng lại cho thân nhân quá cố, thì dù cho thân nhân vẫn còn bị đọa đày nơi chốn Tam Đồ, nhưng nhờ sự hồi hướng này mà tìm lại ánh sáng Trí Huệ, chờ đợi ngày mãn kiếp của Súc Sanh, thần thức thoát ra ngoài, và với một chút Trí Huệ có được, với Công Đức do thân nhân còn sống tu tập và hồi hướng cho, thần thức sẽ dứt kiếp đọa đày và biết được hướng đi kế tiếp của mình để thác sanh.
Nếu thân nhân quá cố đã về một cảnh giới tốt đẹp, như cõi Trời hay cõi Người, thì việc mình tu tập cũng không có gì là bỏ sông bỏ biển cả. Nếu thân nhân mình được thác sanh về cõi Người, thì công đức mà mình hồi hướng đó, sẽ giúp cho thân nhân mình được tốt đẹp hơn, nói nôm na là giàu có thêm. Ngoài ra, nếu mình tu tập và cũng luôn nguyện cầu cho thân nhân của mình, gặp được Thiện Tri Thức dẫn dắt, và cũng biết tu tập để có thể thăng hoa, thì đó lại là một chuyện rất … rất tốt!
Nếu hơi ấm cuối cùng tụ ở bụng: vong linh sẽ bị đọa vào loài ngạ quỷ.
Nếu hơi ấm cuối cùng tụ ở đầu gối: vong linh sẽ bị đọa vào loài súc sanh.
Nếu hơi ấm cuối cùng tụ ở 2 bàn chân: vong linh sẽ bị đọa vào địa ngục.
Người chủ lễ và các thân nhân của vong linh nên làm tất cả mọi việc cho vong với tinh thần của Tứ Vô Lượng Tâm. Với tất cả Tâm Từ Bi Hỷ Xả, thay mặt cho vong mà bố thí, in Kinh, đúc tượng hoặc là giảng Pháp, hay làm bất kỳ một điều gì tạo nên công đức, hồi hướng lại cho vong, đều rất tốt đẹp và lợi lạc cho vong lẫn thân nhân. Trong thời gian 49 ngày, nếu vong được hưởng những công đức đó, xem như là vong có đủ đầy phương tiện để có thể ra đi ở một kiếp tới.
Muốn bố thí và hồi hướng cho người thân quá cố, chỉ có một điều rất là tốt đẹp, là hành sử Tứ Vô Lượng Tâm, Từ Bi Hỷ Xả; một lời tốt đẹp, một hành động tốt đẹp, cái gì tốt đẹp … cũng đều hồi hướng lại cho thân nhân, như vậy rất tốt.
Việc siêu độ cho một vong linh là một công hai việc: vừa giúp cho vong linh được siêu thoát, mà cũng vừa giúp cho bản thân của người chủ lễ được thăng hoa. Nếu việc siêu độ đó là một hành động xuất phát từ tấm lòng chân thật của mình, và vì một chúng sanh mà đem hết tấc dạ chân thành của mình ra để tạo điều An Lạc, vong linh cũng được hưởng, mà chính bản thân mình cũng được hưởng. Công đức đó, vong linh sẽ hưởng một, mà người chủ lễ sẽ hưởng được đến sáu phần. Cho nên, công đức đó không thể nghĩ bàn.
Lợi Ích Của Việc Siêu Độ Cho Vong Linh
- Nhờ có việc siêu độ vong linh, người đã tu tập, đã bước qua giai đoạn tập tểnh tu tập rồi, sẽ được gia tăng phước huệ.
- Nhờ có việc siêu độ vong linh, người chưa từng tu tập, có dịp bước vào việc tu tập, để rồi từ đó, làm đà cho những bước tiến nhảy vọt trong vấn đề tu tập.
Chúng sanh từ người giàu có cho đến người bần hàn, không ai thoát được cái chết cả. Ngày hôm nay mình siêu độ cho một người, ngày sau người khác sẽ siêu độ cho mình. Nếu mình không đem tấc dạ chân thành để siêu độ cho người, thì sẽ khó có người đem tấc dạ chân thành để siêu độ cho mình. Đó là nguyên tắc chánh yếu, thường tình, không thoát đâu được hết.
Cho nên, dù có muốn bước vào việc tu tập, hay chưa muốn bước vào việc tu tập, vẫn phải hiểu rằng, trước sau gì tôi cũng phải đi vào con đường tử vong. Đã có sinh thì phải có tử. Khi tôi chạm mặt với cái chết, nếu tất cả mọi người đều cùng mang một ý nghĩ như tôi là sống chết mặc ai, thì như vậy, ai sẽ là người giúp siêu độ cho tôi?
Vì vậy mà tôi phải nhớ rằng: việc bước vào con đường tu tập là một việc đương nhiên, không tránh khỏi, vì kẻ đi trước, người đi sau. Không bước vào con đường tu tập, sẽ không có dịp làm quen đến vòng nghiệp lực, đến việc làm sao phá được vòng nghiệp lực, làm sao để tiêu trừ được nghiệp chướng. Tất cả những việc đó đều có liên quan đến Tâm – Ý – Tánh. Hiểu được một cách sâu sắc vòng nghiệp lực, là tự mình trui rèn con người của mình, để tự biến cải mình, từ xấu hóa tốt, từ tốt ít biến thành tốt hơn, để rồi từ đó, có cơ hội đi lên.
Cho nên, việc siêu độ cho một vong linh, là cửa ngõ giúp cho mình bước vào con đường tu tập, và hiểu được rằng, việc tu tập rất là quan trọng và cần thiết cho bất kỳ một người nào. Một nguyên tắc chánh yếu cần phải ghi nhớ là, mình có làm cho người thì người mới làm cho mình! Nếu mình từ chối người thì người sẽ từ chối mình! Do đó, nhân và quả như bóng với hình, không bao giờ rời nhau nửa bước. Vì vậy đừng kinh sợ, đừng hoảng hốt khi nghe đến hai chữ tu tập. Thật sự ra, nó đem lại cho mình bao nhiêu điều lợi ích, trên đường Đời lẫn đường Đạo.
Sự tu tập giúp cho mình được an nhiên tự tại trong cuộc sống, rồi một mai mình bỏ thân xác ra đi, mình cũng sẽ thăng hoa một cách dễ dàng. Sự tu tập cũng giúp cho mình có được cơ hội giúp người, để cho người có thể được thăng hoa. Người thăng hoa mà mình cũng thăng hoa, vì công đức mình hưởng đến sáu phần, công đức của người mình siêu độ chỉ có một phần mà thôi. Cho nên điều này có lợi chớ không bao giờ có hại. Vì vậy, những điều hiểu biết của mình trong vấn đề siêu độ, đem ra phổ biến cho người này người kia để cùng nhau tu tập, cùng nhau biết cách siêu độ, đó là một điều rất tốt. Cũng là thuộc trong Tứ Vô Lượng Tâm! MILFS, Matures, Teens. Best Porn Online https://mat6tube.com/ watch right now! USA, UK, Australia, South Korea, France, Germany, etc.
Người đời thường nói: “Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người.”
Siêu độ cho một vong linh là cứu Thân Huệ Mạng của thần thức. Điều này còn quan trọng hơn cả cứu thân người nữa. Thân người dù có thương tích đầy mình, dù có gặp hiểm nguy, nếu được thuốc hay thầy giỏi, việc lành lặn cũng chỉ mất thời gian.
Đối với một vong linh, sở dĩ không siêu thoát là do Trí Huệ bị lu mờ, đôi khi rơi vào cảnh giới tối tăm, không thể tháo gỡ vướng mắc của mình.
Trí huệ ví tựa ngọn đèn; ngọn đèn đã tắt hay chỉ còn mờ ảo, vong linh phải quờ quạng mà đi, tìm đâu ra được nẻo đúng đường ngay?
Vong linh biết rằng tôi phải đi về hướng đó, nhưng hiện giờ còn bị kẹt lối trong đám rừng già, quanh đi ngoảnh lại chỉ một màu đen, thì nẻo đường vong muốn tiến tới, biết đến bao giờ tìm ra phương hướng?
Siêu độ cho vong linh là giúp cho vong linh thắp sáng lại ngọn đèn Trí Huệ của mình, phá tan bóng đêm, tìm ra phương hướng mà mình muốn đến.
Người chủ lễ thành tâm đem hết Đạo Lực cùng Tâm Lực của mình để giúp cho một thần thức, từ cảnh giới Đọa lên đến cảnh giới Người, và thậm chí, nếu người đó gia sức lên thì cũng có thể đưa lên đến cảnh giới Trời hay cảnh giới Phật được. Đó là một công đức không thể nghĩ bàn, vì đã giúp cho một thần thức từ dưới vực sâu lên đến núi cao.
Không có người chủ lễ, nghi thức dù có hay đến mấy, cũng vẫn không giúp được gì cho hương linh đâu! Vì vậy, cần phải kêu gọi mọi người, nên vì hương linh mà tu tập, để rồi sau đó, có thể làm điều lợi lạc cho cả đôi bên.
Thật ra không phải mình giúp không cho vong linh đâu, mà chính là, mình vừa giúp cho vong linh, vừa hưởng được lợi lạc, và cũng chính mình chuẩn bị cho người khác giúp mình trong tương lai, khi mình đối diện với cái chết.
Đây cũng là cách duy nhất để giúp cho một người con, làm tròn được chữ hiếu của mình đối với cha mẹ đã mất đi. Chỉ có con cái, mới có thể có đủ một lực rất mạnh, để đưa cha mẹ của mình, hay ông bà của mình về được một cảnh giới tốt đẹp, vì đó là một tình cảm chân thành xuất phát từ Tâm! Vì vậy, nếu người con đã sẵn biết tu tập, tức là đã có được một đạo lực rồi, bây giờ cộng thêm với Tâm Lực nữa, thì đó là một điều quá tốt đẹp.
Nhưng, nếu người con chưa biết tu tập, chỉ có một Tâm Lực mạnh mẽ mà thôi, thì vẫn được như thường, và đây là một dịp để cho người đó bước vào đường tu tập vì cha mình, vì mẹ mình, vì ông bà của mình, thì lợi lạc cho cả đôi bên.
Sau 49 ngày, người phát tâm siêu độ sẽ tìm thấy được một sự thay đổi lớn lao trong cuộc đời của mình, nhưng phải với một điều kiện tiên quyết là có một Tâm Lực vô cùng mạnh mẽ.
Sau 49 ngày, để lưu niệm, thân nhân người quá cố có thể treo lên tường, hoặc đặt hình của người ấy ở một nơi nào đó trong nhà, tùy theo sự trang trí của mỗi nhà.
Mỗi năm, vào đúng ngày người đó qua đời (có người dùng ngày Dương Lịch, có người dùng ngày Âm Lịch, cách nào cũng được cả, miễn là tròn một năm), tất cả thân nhân, bạn bè quen biết của người quá cố, tề tựu lại, người đại diện sẽ có đôi lời nói về thân thế, về những sự đóng góp vào Gia Đình, vào Xã Hội, vào Quốc Gia của người quá cố. Cũng có thể nhắc lại những đức tánh, những việc làm tốt đẹp của người này khi còn sống.
Tất cả mọi người hiện diện trong ngày hôm ấy sẽ ăn chay, và đồng hành lễ Sám Hối, Trì Chú, Niệm Phật.
Sau cùng thì hồi hướng công đức tu tập của ngày hôm đó cho người quá cố.
Cứ mỗi người đem hết tâm thành của mình ra tu tập ngày hôm đó, công đức trao về cho người quá cố một phần, người đó hưởng sáu phần.
Nếu có 20 người tham dự buổi lễ, thì người quá cố sẽ được hưởng 20 phần công đức!
Đó là phương thức tưởng niệm hữu ích nhất cho người sống lẫn người chết.
Bên cạnh đó, nếu thân nhân quyết định hành việc Thiện để hồi hướng cho người đã mất, thì lại là một việc mang đến quá nhiều Phước Báu cho người đã mất.
Nói tóm lại: nghi thức đám giỗ cho hương linh, một năm sau đó, là ăn chay, sám hối, trì Chú, niệm Phật và làm điều phước thiện. Tất cả công đức đó hồi hướng cho hương linh, không phải rườm rà nấu nướng, cúng cơm, làm bàn thờ, lập bài vị gì hết.
Hương linh không trở về nữa để ăn đâu, dù đi bất kỳ một cảnh giới nào, cũng không trở về để ăn được. Về cảnh giới Người thì, đã trở lại làm người rồi, cũng không trở về ăn được. Về cảnh giới Trời, cũng vẫn không trở về để hưởng đâu. Nhưng, những công đức tu tập của thân nhân người quá cố, sẽ giúp cho hương linh ở tại cõi Trời hoặc cõi Người, được hưởng nhiều lợi lạc trong ngày hôm đó.
Nếu về Cực Lạc, là một việc khác nữa! Nếu hương linh về được Cực Lạc, sự tu tập của thân nhân của hương linh, sẽ giúp cho hoa sen của hương linh đó mau nở ra, do đó, lúc nào cũng lợi ích cho cả đôi bên.
Sự tu tập và hồi hướng của thân nhân hằng ngày, sẽ giúp cho hương linh gặp nhiều lợi ích như là may mắn, sức khỏe, được hưởng những thứ tốt đẹp ở cõi trần, nếu hương linh đó đã đầu thai làm người.
Nếu hương linh đó về cõi Trời, thì thọ mạng ở cõi Trời sẽ được kéo dài, nhờ ở công năng tu tập và hồi hướng của thân nhân cho hương linh.
Nếu hương linh đó được may mắn vãng sanh Cực Lạc, thì sự tu tập, hồi hướng của thân nhân sẽ giúp cho hoa sen càng mau nở.
Một thần thức được nhập liên hoa, có nghĩa là được vào trong hoa sen, thì sẽ ở trong đó để tu tập, gột rửa thân tâm của mình trong một thời gian; tùy theo mức độ tu tập của hương linh, mà hoa sen sẽ nở nhanh hay chậm. Nhưng, nếu có được sự ủng hộ, trợ giúp của thân nhân, hoa sen đó sẽ nở lẹ hơn.
Khi hoa sen nở ra, thần thức trong ấy sẽ càng ngày càng lớn, và có cơ hội để cùng với tất cả những thần thức khác tham dự những buổi nghe Pháp, được đi đảnh lễ các chư Phật trong mười phương. Vì vậy mà cần cho hoa sen được nở nhanh! Những người “đới nghiệp vãng sanh” Hạ Phẩm Hạ Sanh, phải mất thời gian rất lâu mới có thể gột rửa được thân tâm của mình. Cho nên, nếu được sự giúp đỡ của thân nhân, nhất là con cái của mình, hoa sen đó sẽ nở nhanh hơn. Khi hoa sen đã nở, thần thức trong ấy sẽ càng ngày càng lớn lên, việc tu tập càng tăng tiến, phẩm vị càng lên cao. Từ Hạ Phẩm Hạ Sanh, Thánh Chúng tiến lần đến Thượng Phẩm Thượng Sanh, chánh thức trở thành Bồ Tát của Cực Lạc, tham dự hết tất cả những công việc cứu độ chúng sanh của hàng Bồ Tát.
Khóa lễ siêu độ cho hương linh đã hoàn mãn.
Bàn Thờ:
Sau 49 ngày, dù cho hương linh đi về cảnh giới nào cũng vậy, không cần giữ bàn thờ đó nữa. Nếu người chủ lễ hoặc thân nhân của hương linh, vì hương linh mà tu tập mỗi ngày, và hồi hướng cho hương linh, thì dù ở bất kỳ một cảnh giới nào, hương linh cũng nhận được sự hồi hướng đó. Đây là việc làm ích lợi cho cả đôi bên.
Người chủ lễ tiếp tục việc tu tập hằng ngày sau 49 ngày, và giữ được trường chay thì tốt, còn nếu không giữ được trường chay, trở lại như cũ cũng vẫn không sao.
Phần chuẩn bị Pháp để giảng có những sự đòi hỏi như thế nào? Dựa trên các tiêu chuẩn ra sao?
Nếu vong linh là thân nhân của người chủ lễ biết tu tập thì điều đó quá dễ! Người chủ lễ đã biết rõ tánh tình của vong linh khi còn sống, cái gì thích, cái gì không thích, điều sai lầm nào hay phạm phải, tâm sự ra sao, vướng mắc phải khuyên giải như thế nào v.v…
Cho nên, việc giảng Pháp tương đối cũng dễ dàng, chỉ cần để tâm một chút, sắp xếp lại cho có mạch lạc và bắt đầu nói chuyện, giống y như là đang nói chuyện với một người trên dương thế, khi người đó gặp những điều khúc mắc đến hỏi ý kiến của mình, mình khuyên giải họ ra làm sao?
Còn đối với một người chưa biết việc tu tập, đem Tâm Lực mạnh mẽ của mình để siêu độ cho một vong linh, họ bắt buộc phải nghiên cứu, tìm hiểu xem những gì mình cần phải nói chuyện với vong linh.
Nếu vong linh đó là thân nhân của mình thì không có gì là khó khăn cả. Nhưng, nếu vong linh đó là một bạn hữu hay người quen biết, cần phải tìm hiểu từ ở gia đình của vong linh đó, để có thể hiểu biết thêm một cách tường tận về những khúc mắc của vong linh, hầu tìm cách giảng dạy, dẫn dắt vong linh đó bước ra khỏi những vướng mắc.
Việc tìm hiểu những bài Pháp để tạo một kiến thức cho mình, đã được giảng rõ rất nhiều ở trang web LacPhap.com. Những bài Pháp nơi đây đủ để giúp cho một người mới bước vào việc tu tập, có được một trình độ căn bản để có thể siêu độ cho vong linh.. Một người đã tu tập lâu năm, nhưng nếu biết tư duy cho sâu sắc những lời Pháp, sẽ làm cho trí huệ được gia tăng rất nhiều.
Những bài Pháp cũng đã được soạn theo đề tài. Tùy theo những vướng mắc của thần thức mà người chủ lễ sẽ nghiên cứu, tìm hiểu những đề tài liên quan hầu giải tỏa những khúc mắc đó cho thần thức.
Nhân Quả
Tu tập là bắt buộc phải tư duy, đó là cách duy nhất để làm cho Trí Huệ của mình phát triển theo chiều sâu. Trí Huệ phát sáng không chưa đủ, Trí Huệ đó cần phải gom lại, cô đọng lại để trở thành một tia sáng cực mạnh mà người tu tập có thể điều khiển nó trong việc cứu giúp Người và cứu giúp chính bản thân mình.
Dù người còn sống hay người đã chết, tất cả đều bị chi phối bởi Nghiệp Lực, không có một ngoại lệ nào, cho bất kỳ ai trong việc chi phối này.
Sự tư duy về những câu hỏi sau đây sẽ giúp cho người còn sống hiểu được giá trị của sự hiện diện của mình, ngày hôm nay, trên cuộc đời.
Người đã xa lìa cuộc đời rồi, vì không có cơ hội để tư duy một cách sâu sắc về Nghiệp Lực, nên còn vướng mắc và loanh quanh với cái “Lưới” do chính mình đã quấn vào người của mình.
Chính thân nhân còn ở lại sẽ giúp cho người quá cố tư duy để trí huệ bừng sáng, có thể nhận ra được khúc mắc ở nơi nào, hầu tháo gỡ cái lưới ra khỏi mình, và nhẹ nhàng cất bước.
Câu hỏi được đặt ra là:
-
Tôi đến đây tự bao giờ?
Tôi đến đây từ vô thỉ kiếp, chớ không phải tôi mới tới đây.
-
Từ vô thỉ kiếp tôi đã làm gì?
Từ vô thỉ kiếp tôi đã gieo nhân.
-
Khi cây mọc lên sum sê, trái đã chín muồi tôi phải làm sao?
Tôi bắt buộc phải hái trái.
-
Vậy chớ trái đó là trái ngọt hay là trái chua hoặc trái đắng?
Cũng có trái ngọt, mà cũng có trái chua, đôi khi có trái đắng, đôi lúc có những trái có hình dạng vô cùng quái dị.
-
Tại sao lại có nhiều loại trái như vậy?
Đó là do khi tôi ươm cây, những hạt giống mà tôi gieo xuống, tôi đã không có sự lựa chọn kỹ càng, cho nên tôi mới nhận được những trái đắng, những trái chua, những trái có hình thù quái dị.
-
Khi tôi nhận được một quả chín muồi thơm ngon, tôi có cảm giác như thế nào? Và khi tôi nhận được những quả mà tôi không vừa ý, cảm giác của tôi ra sao?
Khi tôi nhận được một quả chín muồi thơm ngon, tôi biết chắc chắn rằng tôi đã chọn đúng hạt giống, và tôi sẽ theo đó mà vun trồng tiếp tục. Còn những quả chua, đắng, hoặc là có những hình dạng không tốt đẹp, tôi phải lựa lọc và loại ra để không bao giờ có thể ương trở lại những hạt giống như vậy nữa.
-
Nếu tôi muốn lựa lọc lại những nhân này, những hạt giống này thì tôi phải làm sao? Trong số quá nhiều hạt giống, làm sao tôi có thể phân định được hạt giống nào cho trái ngon, hạt giống nào cho trái đắng, trái chua, trái có hình hài xấu xí?
Tôi bắt buộc phải dùng trí huệ của tôi để phân biệt tất cả những hạt giống.
-
Làm sao để có trí huệ mà lựa chọn những hạt giống này?
Tôi phải tu tập để mới có được trí huệ.
-
Nếu tôi muốn tu tập để có được một trí huệ, tôi phải làm sao để mang lại kết quả tốt đẹp?
Sự thấu triệt Vòng tròn nghiệp lực Tâm – Ý – Tánh có thể giúp cho tôi có đầy đủ trí huệ để có thể lựa chọn được những hạt giống nào tốt, những hạt giống nào không tốt.
-
Vòng tròn nghiệp lực giúp cho tôi bằng cách nào?
Vòng tròn nghiệp lực giúp tôi tự nhìn vào bản thân tôi để lọc lừa cho hết những tánh xấu của tôi, vì những tánh xấu khiến cho trí huệ của tôi bị che khuất, không thể nào phát sáng được. Trí huệ của tôi nếu không phát sáng được, tôi sẽ không đủ khả năng để có thể lựa chọn được những hạt giống tốt đẹp nhất.
-
Muốn làm được việc này, nó đòi hỏi ở tôi một cái gì?
Nó đòi hỏi ở tôi một sự can đảm.
-
Can đảm như thế nào?
Là can đảm cầm dao, moi móc, khoét cho sạch, khoét cho tận cùng gốc rễ tất cả những tánh xấu của tôi. Khi tôi không còn bất kỳ một tánh xấu nào nơi tôi nữa, thì lúc đó, trí huệ mới thật sự phát sáng! Như thế, tôi sẽ dùng trí huệ đó như một ngọn đèn để lựa lọc tất cả những hạt giống mà tôi gieo xuống. Có như vậy thì những trái mọc lên sẽ là những trái ngon, trái ngọt, không còn chua, không còn đắng, không còn hình thù quái dị nữa.
Một khi tôi đã có đủ đầy những trái ngọt trong tay, nó sẽ làm hành trang để tôi tiến về Cực Lạc, nơi đó là nơi tôi An Trụ đời đời, không vướng bận, không còn dính líu vào vòng sanh tử luân hồi nữa. Dưới sự hướng dẫn của các Bồ Tát nơi cõi Cực Lạc, tôi sẽ góp phần vào việc mang đến những điều lợi ích cho chúng sanh.
Không phải nói rằng tôi về Cực Lạc là ngồi chơi an hưởng, mà tôi được về Cực Lạc để từ nơi đó, tôi chắc chắn rằng, mình không còn bận bịu với việc phải làm sao lựa lọc những hạt giống mà mình gieo xuống. Tôi về Cực Lạc để tôi cùng với Thánh chúng gieo trồng những cây trái mà tôi biết chắc chắn rằng, những cây trái này là từ ở những mầm giống rất là tốt đẹp. Từ đó, việc cứu độ chúng sanh là điều mà tôi có bổn phận phải làm, cũng như tất cả Thánh chúng của cõi Cực Lạc đã và đang làm.
Như vậy, việc tu tập của tôi là một việc làm có ý nghĩa ngay khi còn ở hiện kiếp. Nhờ vào việc tu tập mà tôi sẽ tìm được một sự An Bình cho bản thân tôi. Từ sự an bình đó, tôi sẽ gieo rắc an bình cho những người chung quanh tôi, tất cả mọi người đều sống trong sự nhẹ nhàng, không phiền não. Và rồi sau đó, chuẩn bị cho một chuyến đi, một chuyến đi đầy ý nghĩa, với tất cả hành trang là những quả rất tốt đẹp, rất ngon ngọt mà tôi đã vun trồng ngay trong kiếp này.
Mong rằng tất cả chúng sanh đều phát tâm tu tập để sửa đổi tâm tánh của mình. Có như vậy mới thoát được những điều không hay sẽ xảy ra, vô cùng tai hại và kinh khủng cho cõi Ta Bà trong tương lai. Chuẩn bị cho những sự việc không hay xảy đến, có thể là trong vòng năm năm, mười năm hay thậm chí hai mươi năm, vẫn bắt buộc phải thực hiện ngay từ bây giờ, nếu không, thì những chúng sanh trong thời vị lai của năm năm, mười năm hay hai chục năm kế tiếp đó sẽ gặp điều vô cùng không hay, nếu không muốn nói là khủng khiếp. Mà những chúng sanh trong khoảng thời gian đó là ai? Chính là những thân nhân của mình, là hậu bối của mình! Khi đó mình đã là bậc tiền bối, nhưng nếu không chăm lo tu tập ngay từ bây giờ, thì chắc chắn rằng hậu bối của mình sẽ gặp cảnh nguy cơ trong tương lai.
Tương lai năm năm, mười năm, hai chục năm không là bao xa cả. Thoắt một cái, búng một ngón tay là tới đích rồi; đừng nghĩ rằng con số hai mươi năm là một con số quá lớn, quá xa. Thậm chí năm mươi năm cũng vẫn là một con số mà người ta có thể tiến đến nó được, chớ không phải chỉ là một con số xa vời, không thể đụng tới được đâu.
Cho nên người tu tập chân chánh phải biết nhìn xa, vì khi mình tu tập, nên nhớ một điều rằng: tu cho chính bản thân mình mà cũng cho hậu bối của mình nữa, để giữ sự An Bình của cõi Ta Bà trong hiện tại và ngay cả trong tương lai.
Vong Linh Chết Trong Đau Khổ
Một vong linh chết trong sự đau đớn, sợ hãi, lòng ngập tràn nỗi lo âu, phiền não, nhiều khúc mắc, người chủ lễ sẽ phải giảng giải cho vong linh như thế nào, để giúp cho họ có thể nhẹ nhàng được, và vơi đi cơn sợ hãi, sân hận hoặc đau đớn hay là phiền não?
Tất cả những cảm giác đau đớn, sợ hãi, phiền não là những cảm giác khi vong linh đó còn tại thế. Một người còn sống, còn ngũ căn thì còn cảm nhận được điều đó. Khi đã trở thành vong linh rồi, thoạt ban đầu, vong linh đó vẫn còn ở vị thế chân bên này, chân bên kia, tức là vong linh chưa nhận chân ra được mình đã mất, cứ nghĩ rằng mình còn sống, vì vậy cảm giác đó vẫn còn.
Tuần lễ đầu tiên rất quan trọng, người chủ lễ sẽ phá đi những cảm giác đó của vong linh bằng cách: nói cho vong biết rằng: vong hiện giờ đang ở trong một cảnh giới khác, không còn hiện hữu trên thế gian nữa. Mà một khi không còn hiện hữu nữa, thì tất cả những cảm giác của vong, bắt buộc phải buông xuống, phải rứt nó ra khỏi thần thức của mình, vì nó không còn có thật nữa rồi!
Khi đó phải giảng cho vong hiểu về tánh chất KHÔNG của tất cả mọi vật thì vong mới có thể buông xả được những cảm giác đó. Khi vong đã buông bỏ xuống những cảm giác đó rồi, thì khuyên bảo vong an trụ vào trong lời Kinh, trong tiếng niệm Phật, để cho vong cảm thấy được che chở và không còn sợ hãi nữa.
Sau đó từ từ cắt nghĩa cho vong hiểu về những khúc mắc của vong. Phải tùy trường hợp của từng vong linh, có những khúc mắc nào cần tháo gỡ. Cho nên, người chủ lễ phải vận dụng trí huệ của mình rất nhiều để có thể tìm một hướng đi đúng mà dẫn dắt vong. Mỗi vong có một tình trạng khác biệt nhau, cũng giống như mỗi người bệnh có một bệnh trạng riêng, vị bác sĩ sẽ tùy theo bệnh trạng của từng bệnh nhân mà cho thuốc.
Để chuẩn bị phần giảng Pháp cho vong, người chủ lễ gần như là phải soạn thảo 49 bài Pháp để “tỉ tê” cùng vong trong 49 ngày siêu độ.
Việc soạn thảo những bài Pháp, thoạt xem qua thì có hơi khó khăn, lúng túng; tuy nhiên vì mình soạn để giảng dạy lại, bỗng nhiên mình hiểu và thâm nhập Pháp rất nhiều.
Người sơ cơ mới làm quen với Đạo, vì thân nhân, lo cho thân nhân mà dốc tâm tu tập, cố gắng thông hiểu Pháp để giảng dạy lại cho vong linh thân nhân, cả hai sẽ cùng ngộ, cùng phát sanh trí huệ, và cùng thăng hoa.
Nên ghi nhớ: Vì vong không còn ngũ căn nữa nên sự tiếp nhận sẽ chậm chạp, không nhanh nhẹn như khi còn sống. Do đó, nên kiên trì giúp cho vong bằng cách nói đi nói lại nhiều lần những lời Pháp. Nắm vững ý chính của lời Pháp, sau đó ngồi thoải mái, từ tốn, xem như vong đang đối diện mình, cùng nói chuyện như khi còn sống.
Cũng có thể đọc một bài Pháp cho vong linh nghe; sau khi chấm dứt thì giảng rộng ra, hay bình luận thêm. Đây là cách cùng vong linh tư duy, mình sẽ hiểu thêm ra. Khi mình vừa suy nghĩ vừa nói, vong cũng sẽ nhờ đó mà trí huệ được gia tăng.
Những đề tài có sẵn chia ra làm bảy tuần để cho người chủ lễ nương theo đó đọc thật kỹ những bài Pháp và giảng lại cho vong nghe trong 49 ngày.
Người chủ lễ nên nhấn mạnh rằng, nếu trong thời gian 49 ngày, vong hết dạ một lòng tu tập, xả bỏ mọi phiền não, mọi vướng mắc và quyết lòng muốn được thác sanh vào nơi đâu thì vong sẽ được như ý.
Đây là thời gian ĐẶC ÂN mà vong được hưởng, để hoán chuyển cảnh giới, hay nói một cách nôm na, là “vong được cơ hội để làm lại cuộc đời.” Do đó, nếu vong hết dạ chân thành tu tập trong suốt 49 ngày, dưới sự thành tâm dẫn dắt của người chủ lễ, vong sẽ được toại ý thác sanh về nơi mà vong muốn.
Sau 49 ngày, sẽ không còn đặc ân đó nữa, người chủ lễ cũng bó tay, không thể giúp cho vong có cơ hội thăng hoa.
Do đó, trong thời gian 49 ngày này, cả chủ lễ lẫn vong linh đều phải hết dạ chân thành. Chủ lễ chân thành hướng dẫn cho vong tu tập. Vong linh cũng hết dạ chân thành sám hối nghiệp chướng nặng nề, xả bỏ mọi phiền não, sân hận, vướng mắc, thần thức được nhẹ nhàng trì Chú, niệm Phật để chuẩn bị cho một cuộc thác sanh được hoàn toàn như ý.
Buông Xả
Khi siêu độ cho một vong linh, người chủ lễ cần phải giúp cho vong linh buông xả rất là nhiều. Phải giảng Pháp như thế nào để có thể khiến cho vong linh buông xả được?
Chỉ cần hỏi vong linh rằng: vong linh bước ra khỏi cái xác của mình rồi, có mang theo được tài sản của mình đi hay không?
Không cần nhiều, chỉ cần mang cái bóp trong đó có một 100 đồng thôi. Vong linh có mang theo được hay không?
Vong linh có một đứa con kháu khỉnh, khi vong linh đã rời khỏi thân xác rồi, vong linh có thể mang theo được cái hơi của con mình theo hay không?
Vong linh có một sản nghiệp to lớn, gồm nhiều nhà cửa, nhiều ruộng vườn, nhiều xe cộ, nhưng vong linh đã mang theo được cái gì?
Một miếng ngói cũng không mang được, một miếng gạch cũng không mang được, một cái bánh xe cũng không mang theo được, vong linh không mang theo được gì hết!
Như vậy, vong linh sẽ cảm thấy rất là tiếc, nhưng thử hỏi, vong linh tiếc cái gì?
Vong linh không phải tiếc nhà cao cửa rộng, không phải tiếc ruộng vườn rộng lớn, mà vong linh tiếc một công trình. Một công trình do mình đã tạo nên.
Vong linh cảm thấy hối tiếc về việc mình đã bỏ quá nhiều công sức, nhưng cuối cùng rồi thì vẫn không mang theo được cái gì hết.
Bây giờ đặt câu hỏi với vong linh: vong linh bảo rằng vong linh đã đem công sức của mình ra để tạo dựng những cơ sở, những tài sản đó, vậy chớ vong linh có nghĩ rằng, trong quá trình tạo dựng đó, vong linh đã gây ra những nghiệp chướng nào hay không?
Một người có quá nhiều cơ sở, quá sức giàu có, thì phải biết rằng đó không phải thuần là sức của họ đã tạo nên những của cải vật chất đó. Không ai có thể nói rằng, tự sức của tôi, tôi đã tạo nên những cơ sở đó.
Vong linh khi còn sống, có tự tay cất lên cơ sở đó hay không? Vong linh cũng phải thuê mướn người, cũng phải liên lạc để mượn tiền, mượn bạc để trang trải những vấn đề tài chính trong quá trình xây cất đó.
Chuyện trước tiên là về vấn đề tài chính, vong linh muốn được người ta cho mượn tiền với lãi suất thấp, với tất cả những điều kiện rất dễ dãi, liệu rằng vong linh có chân thật một trăm phần trăm hay không?
Vong linh mướn người để cất một sơ sở, vong linh có thật sự hành sử Tứ Vô Lượng Tâm trong vấn đề mướn người hay không? Hay lại cũng lươn lẹo, uốn éo, trả giá và đôi khi ép người ta, vì miếng cơm manh áo, mà phải chấp nhận những điều kiện của vong linh?
Cho nên, trong việc tạo dựng một cơ sở, cơ sở càng lớn chừng nào, những tánh xấu của người chủ đó càng hiện rõ ra nhiều chừng nấy.
Hương linh nuối tiếc một công trình, mà công trình đó đã gây tạo ra biết bao nhiêu nghiệp chướng. Có những nghiệp chướng hiện rõ để cho vong linh thấy được qua những việc gấu ó lẫn nhau, cãi vã, tranh chấp nhau. Cũng có những nghiệp chướng tiềm ẩn, vì những kẻ thấp cổ bé miệng, cam chịu để lấy miếng ăn.
Rồi cũng vì việc tạo dựng một công trình, hương linh đã gieo biết bao nhiêu Nhân không lành, vì lúc nào cũng phải thủ lợi cho mình. Không thể nào đem mối lợi cho kẻ khác, mà chấp nhận điều bất lợi cho mình. Mà muốn giữ điều lợi cho mình thì phải thủ đoạn đưa ra. Ngoài ra còn biết bao nhiêu điều khác nữa xoay quanh việc tạo dựng một công trình.
Hương linh đắc thắng với công trình do mình tạo dựng, nhưng thật sự ra, công trình đó được tạo dựng trên quá nhiều sự khổ đau của kẻ khác. Càng tạo nên nhiều công trình chừng nào thì sự đau khổ mình gây nên cho kẻ khác càng nhiều chừng nấy.
Rồi vợ đẹp con ngoan, có khi hương linh đã chiếm đoạt người vợ đó trong tay của một kẻ khác. Tức là hương linh đã gieo một cái nghiệp không lành với thù địch của mình rồi đó.
Vì vậy, trong việc tạo dựng một công trình, hương linh đã vô tình hay cố ý gây nên nhiều nghiệp chướng, chính những nghiệp chướng đó làm nặng nề bước chân của hương linh. Khi hương linh còn sống, hương linh không nhận ra nó nặng nề. Vì sao? Vì hương linh đi bằng xe hơi.
Còn bây giờ, với một cái bóng nhẹ như sương, như khói, hương linh mới thật sự cảm thấy bước chân mình nặng nề vì những cái vướng mắc đó.
Ngày giờ này, hương linh bắt buộc phải buông xả hết tất cả những sự nuối tiếc của mình, vì tất cả giờ đã trở thành Không. Ngay chính thân xác của hương linh cũng còn bị thiêu đốt để trở thành cát bụi. Cái thân xác của mình còn không giữ được, thì sá gì những công trình. Những công trình đó xây dựng được, thì phá hủy được. Hương linh không tự mình phá hủy nó, thì những kẻ thù địch (nếu có) sẽ phá hủy nó, trong một sớm một chiều.
Vì vậy, không có cái gì để nắm giữ, cũng không có cái gì để mang theo. Ngày giờ này hương linh không còn một thân xác nữa. Hãy mau mau tìm một nơi an trụ. Nếu khư khư không bỏ xuống những gì mà mình còn luyến tiếc, thì chắc chắn rằng hương linh sẽ không thể nào nhẹ nhàng cất bước được. Nay chỉ còn là một cái bóng nhẹ như tơ, thì sức đâu mà lôi kéo cả một chiếc xe chứa toàn là tảng đá lớn?
Hương linh cần phải gấp rút tìm nơi an trụ; mà muốn tìm được nơi an trụ thì hương linh phải có ngọn đèn trí huệ và phải làm sao cho cái túi của mình nhẹ chừng nào tốt chừng nấy, để có thể cất bước ra đi được nhẹ nhàng.
Muốn có ngọn đèn Trí Huệ, hương linh bắt buộc phải tu tập. Để hành trì việc tu tập, hương linh phải sám hối. Sám hối để chi? Để cho những cục đá mà mình mang theo sẽ tan đi … tan đi thành tro bụi.
Hương linh phải trì Chú. Để chi? Để cho ngọn đèn Trí Huệ của mình được phát sáng lên.
Hương linh phải niệm Phật. Để chi? Để nương vào sức của Phật, vào ánh hào quang của Phật, giúp cho ánh sáng Trí Huệ được tỏ rõ thêm.
Lúc đó, hương linh có đầy đủ những phương tiện cần thiết để giúp cho hương linh tìm được nơi an trụ mới.
Cho nên, nếu hương linh không buông xuống hết tất cả những gì nặng nề mà mình kéo lôi theo, thì đời đời kiếp kiếp, hương linh phải lôi kéo những cục đá này, hương linh mãi mãi không bao giờ tìm được nơi an trụ.
Nếu hương linh còn lưu luyến con cháu, không an tâm vì sợ rằng mình ra đi rồi, con mình không tự lo được, cháu mình không thể nào đủ sống, chỉ cần đặt câu hỏi cho hương linh:
-
Điều thứ nhất, hương linh làm cách nào để lo cho con, cho cháu của mình, hay thậm chí, lo cho người vợ mà mình gọi là thương yêu hết mực? Hương linh làm thế nào để cho con mình có cơm ăn ngày 2 bữa? Làm cách nào để cho con của mình có quần áo đẹp mà mặc? Hương linh sẽ không làm được gì hết.
Hương linh sẽ phải tự đặt câu hỏi rằng: Tôi có thể tự lo được cho bản thân tôi không? Ngày giờ này, tôi đã không thể tự lo được cho bản thân tôi, thì làm sao tôi có thể lo cho những người khác được?
- Điều kế tiếp, hương linh có nhìn thấy nghiệp lực giữa hương linh và đứa con của mình hay không? Hương linh có nhìn thấy nghiệp lực giữa mình và người thương yêu nhất là vợ hay không? Chắc chắn rằng, ngày nay, với hình dạng của một cái vong, hương linh có thể nhìn rõ được. Thì như vậy, hương linh còn cái gì để mà lưu luyến nữa?
Nghiệp lực đã giải quyết xong rồi! Nếu bây giờ hương linh hỏi rằng: Hương linh có thể nào giữ nguyên trạng thái của cái linh hồn này, để có thể quây quần bên đứa con của mình, cho tới khi nó nhắm mắt lìa đời hay không? Chắc chắn rằng, hương linh đã thấy nghiệp lực giữa mình và nó chấm dứt rồi. Đường nó, nó đi, đường mình, mình đi. Tại sao lại dại dột gánh vào cái ách của kẻ khác nữa?
Mà có muốn gánh cũng không sao gánh được. Khi mình còn trên dương thế, mình là cha nó, nó là con của mình. Ngày giờ này, đường ai nấy đi, nghiệp ai nấy gánh.
Hương linh đã không thể giải quyết được gánh nặng của mình rồi, thì làm sao có thể giải quyết thêm một gánh nặng nữa?
Tất cả những gì mà hương linh tiếc nuối, đều đã thuộc về vô thường rồi, không còn hiện hữu nữa.
Đối với vong linh, điều cấp bách hiện giờ mà vong linh cần phải giải quyết, đó là tìm cho ra nơi an trụ.
Sau khi 49 ngày hoàn mãn, người chủ lễ cũng phải suy nghĩ lại quan niệm sống của mình. Vì sao? Vì tuy là nói chuyện với hương linh, nhưng người chủ lễ cũng nói chuyện với chính thần thức của mình đó.
Dù cho người sang, người hèn, người giàu có, người nghèo khổ, từ một vị vua cho đến người bần cùng, từ một cao tăng cho đến người mới tập tểnh biết tu tập, không ai qua khỏi được hình dạng của một vong linh. Đã được tiếng “Người” rồi, thì sẽ phải mang tiếng “Vong Linh”, không trừ một ai hết!
Có thấy một người nào khi đã chết rồi mà không được gọi là “vong” không? Chỉ trừ khi người đó được thác sanh liền tức khắc về cõi Cực Lạc hoặc cõi Trời, thì sẽ không qua tiếng “Vong”.
Tức là những người đó không hề có mặt ở Cõi Âm sau phút lâm chung. Đã có mặt ở Cõi Âm rồi, dù rằng chỉ một phút, một giây, thì cũng vẫn được gọi là vong linh. Cho nên, người chủ lễ khi nói chuyện với vong linh là cũng tự nói với bản thân mình, để chuẩn bị cho cái vị trí của mình trong tương lai, không ai bước qua khỏi vị trí đó cả, chỉ trừ hai cái lý do vừa nói ở trên.
Mỗi Ngày Trong Tuần Thứ Nhất:
Cắt nghĩa cho vong biết là vong đã chết rồi, không còn hiện hữu trên cõi Đời này nữa, khuyên vong đừng sợ sệt, hãy an trụ trong ngôi nhà mới này (Đã cho vong nhập vị), trong lời Kinh, tiếng kệ, tiếng niệm Phật, tiếng trì Chú.
Tiếp theo đó là giảng dạy cho vong hiểu về sự vô thường của chính bản thân họ, của tất cả mọi sự vật trên cõi đời. Lần lượt tiếp theo, là những đề tài về nhân quả, nghiệp lực, vì người sống lẫn người chết đều bị chi phối bởi nhân quả và nghiệp lực.
Cũng trong tuần lễ này, người chủ lễ cũng nên sắp xếp để cho những thân nhân, bạn bè hoặc người quen biết với vong linh đến trước bàn thờ vong, phát lời “sám hối” cùng với vong linh. Khi vong linh còn tại thế, họ đã có những xích mích, làm những việc trái lòng, gây tạo sự buồn phiền, sân hận hoặc hiểu lầm đối với vong linh.
Những lời chân thành ăn năn sám hối này, sẽ giúp cho hương linh được nhẹ nhàng, xả bỏ những phiền não, góp một phần lớn vào việc giúp cho hương linh dễ dàng siêu thoát.
Những đề tài Pháp tham khảo trên LacPhap.com:
Mỗi Ngày Trong Tuần Thứ Nhì:
Giảng cho vong nghe về những khúc mắc của vong. Những đề tài về “khúc mắc của chúng sanh” thì nhiều vô số kể, nhưng thật ra cũng tương tự, cũng xoay chung quanh vấn đề tiền tài, vật chất, sân hận, nợ nần, buồn bã, oan ức, tức là những cái khổ hằng ngày. Vì đó là thân nhân của mình, nên những khúc mắc của họ mình vẫn biết được, cho nên phân loại khúc mắc đó thuộc về đề tài nào, và chú tâm nghiên cứu về đề tài đó.
Mỗi Ngày Trong Tuần Thứ Ba:
Người chủ lễ sẽ nghiên cứu các đề tài về Nghiệp Lực, về lục dục thất tình, về khổ nạn.
Những bài Pháp tham khảo:
Vong đã xa rời dương thế, ra đi nhưng vẫn còn ôm ấp những ước vọng chưa thực hiện được. Sự nuối tiếc cuộc đời sẽ là cơ hội tốt đưa vong trở lại cõi Ta Bà, nhưng thử hỏi:
- Khi còn tại thế, vong có thực sự sống những ngày hoàn toàn an bình, không phiền não, không vướng bận, không lo âu chăng?
- Vong chưa từng bao giờ đối diện với nghiệp chướng nào sao?
- Vong chưa từng bao giờ gây tạo nên nghiệp lực với ai chăng?
Bước vào cõi Ta Bà là bước vào vòng Sanh Tử Luân Hồi, là quấn vào người của mình không biết bao nhiêu là vòng nghiệp lực chằng chịt, không tìm ra được mắt tháo gỡ.
Hằng ngày, các Chư Phật và Bồ Tát đã bận rộn với biết bao nhiêu chúng sanh kêu gào cứu khổ!
-
Trở lại cõi Ta Bà, vong linh có chắc chắn rằng mình sẽ thác sanh về một nơi sung sướng, có nhà cao cửa rộng, có nệm ấm chăn êm, có kẻ hầu người hạ chăng?
Vong tin tưởng rằng sẽ được cư ngụ trong một Quốc Gia hùng cường, giàu có, biết tôn trọng và chăm lo cuộc sống của mỗi người dân hay sao?
-
Nếu vong linh phải thác sanh vào một nơi mà ánh sáng văn minh không có, cuộc sống con người vô cùng lạc hậu, không khác loài súc sanh, thiếu ăn, thiếu mặc, bữa đói, bữa no, liệu rằng vong linh có còn phấn khởi để trở lại cõi Ta Bà nữa hay không?
- Người ở cõi Ta Bà còn cố gắng tu tập để được vãng sanh về Cực Lạc, thì tại sao vong linh lại chọn cõi Ta Bà để trở lại, cho thêm nhiều phiền não, nhiều khổ sầu, nhiều tai ương?
Mỗi Ngày Trong Tuần Thứ Tư:
Sẽ xoay quanh đề tài về Tự Ái.
Người chủ lễ vạch rõ cho vong thấy rằng chính do ở Tự Ái mà vong đã sân hận, đã đem nhiều phiền não đến cho mình, đã gây tạo nên biết bao nhiêu nghiệp lực với kẻ khác.
Bài Pháp tham khảo:
GHI NHỚ:
Trong tất cả các buổi giảng Pháp, đều gợi lên cho vong thấy rằng, vong không nên trở lại cõi Ta Bà, lúc nào cũng vạch rõ sự thù thắng vi diệu của cõi Trời, cõi Phật.
Khuyên vong nên sám hối, trì Chú, niệm Phật thật nhiều để người được nhẹ nhàng, dễ dàng xả bỏ những vọng tưởng.
Như thế việc thác sanh về cõi Trời, cõi Phật cũng sẽ được dễ dàng.
Mỗi Ngày Trong Tuần Thứ Năm:
Người chủ lễ sẽ giảng cho vong nghe về Tam Độc: Tham – Sân – Si, về những tai hại, những hậu quả đáng ghê sợ của nó và Ba Món Phiền Não này đã lôi kéo chúng sanh trôi lăn trong vòng sanh tử như thế nào?
Đề tài Tham Sân Si là đề tài lớn, người chủ lễ cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng để giảng giải cho vong nghe.
Thần thức có hiểu thấu đáo thì sẽ dễ dàng xả bỏ những vướng mắc của mình, vì đa số những vướng mắc đều nằm vào Tham Sân Si.
Nếu người chủ lễ cảm thấy lúng túng, không diễn tả hết được tính chất của Tam Độc này thì cứ đọc cho vong nghe những bài Pháp nói về Tham Sân Si.
Nên đọc chậm rãi, rõ ràng để cho vong dễ thâm nhập.
Mỗi Ngày Trong Tuần Thứ Sáu:
Đề tài được chọn để giảng trong tuần này là đề tài về Phiền Não.
Bài Pháp tham khảo:
Trong tuần này, người chủ lễ sẽ trình bày cho vong sự thù thắng của cõi Trời, những phước báu mà Thiên Chúng được hưởng ở cõi Trời.
Muốn được sanh về cõi Trời, vong phải dốc lòng xả bỏ phiền não, phải giữ một trạng thái Bình để tuyệt đối không vấy vào sân hận.
Giảng Cho Vong Linh Về Cảnh Giới Trời và Cảnh Giới Phật
Sau đây là hai cảnh giới: Trời và Cực Lạc. Người chủ lễ có thể đọc lên cho vong nghe. Nếu có thể thì giải thích sự thù thắng (sự vượt bực, sự khác thường) của từng cảnh giới, vong thấu hiểu và tự mình lựa chọn.
Cảnh Giới Trời
Ánh sáng nơi cõi Trời Dục Giới luôn luôn rực rỡ, gió mát quanh năm suốt tháng, không bao giờ thấy nắng nóng, nực nội, cũng không bao giờ thấy mưa rơi, tuyết giá. Một khung cảnh làm cho Thiên Chúng luôn luôn cảm thấy phơi phới trong lòng, lúc nào cũng thấy phấn khởi, lúc nào cũng thấy vui tươi, không chút phiền não, không chút lo âu, không chút buồn rầu. Tóm lại chữ Buồn, chữ Lo không bao giờ hiện hữu ở tại Cõi Trời cả. Mỗi Thiên Chúng đều có thần thông, nghĩ đến cái gì thì cái đó sẽ hiện ra. Một Thiên Chúng Nữ sửa soạn để đi chơi, nghĩ đến một chiếc áo thật đẹp theo ý muốn của mình, tức thì cái áo hiện ra. Một Thiên Chúng Nam nghĩ đến việc: tôi muốn được cỡi ngựa để rong chơi với bạn bè, tức khắc một đàn ngựa con nào cũng đẹp, con nào cũng oai vệ, hiện ra theo ý muốn của người đó.
Hoặc giả, chiều hôm nay tôi muốn mời vài người bạn tới để dùng tiệc; tôi muốn những thức ăn như thế này, thế này; tôi muốn nơi tôi ở được trang hoàng như vầy, như vầy. Tất cả mọi thứ tôi đã vẽ sẵn ra trong đầu, tức khắc tôi sẽ đạt được hết theo ý muốn của tôi. Tôi muốn vui chơi, đàn ca, xướng hát, tôi muốn xem kịch, tôi muốn làm bất kỳ cái gì mà tôi thích, nhất nhất không sót một cái gì hết, tất cả đều hiện ra theo ý muốn.
Trên Cõi Trời có rất nhiều chùa, tất cả đều rất uy nghi, tráng lệ; chỉ cần tôi tỏ ý muốn tu tập, tức khắc các vị Bồ Tát sẽ chỉ dẫn cho tôi một cách rất rõ ràng việc tu tập. Nếu tôi muốn phát tâm tu tập, đó là một điều rất tốt, không gặp sự khó khăn gì hết. Từ việc tôi phát tâm tu tập, cho đến việc tôi bước sang cảnh giới Cực Lạc, đều rất là dễ dàng.
Chúng sanh khi được thác sanh về Cõi Trời, có nghĩa là, chỉ ở Cõi Trời Dục Giới mà thôi. Muốn được lên tầng Trời cao hơn, phải tu tập thêm. Đã mang tên là Cõi Trời Dục Giới, tất cả những gì gọi là hưởng Lạc, đều không thiếu sót một điều gì cả. Vì vậy, khi chúng sanh được về Cõi Trời Dục Giới, rồi đắm chìm vào trong Dục Lạc, cho nên khó lòng mà lo tu tập lắm. Ngày tháng qua nhanh, đến khi dòm lại thì hình tướng đã suy hao, không còn những tướng tốt nữa. Vì vậy, được sanh về Cõi Trời, nhưng nếu phát tâm tu tập, thì có thể kéo dài thời gian ở tại Cõi Trời, và cũng có cơ hội tốt, nếu muốn, để được sanh về Cực Lạc.
Còn nếu chỉ thuần hưởng Dục Lạc không, thì sẽ có một thời hạn nhất định. Khi phước Trời đã mãn, nếu không tu tập, vong bị trả trở về cõi Ta Bà và sẽ theo nghiệp kế tiếp của mình mà đi; như vậy vong sẽ trở lại với điểm bắt đầu là TRẢ NGHIỆP và tiếp tục TẠO NGHIỆP cho đến ngày nhắm mắt lìa đời, nói tóm lại là trôi lăn trong vòng Sanh Tử Luân Hồi.
Một người được thác sanh về Cõi Trời, nhưng nếu họ không chú tâm đến việc hưởng lạc thú của Cõi Trời, mà vẫn tiếp tục tu tập, hoặc phát nguyện tu tập, thọ mạng của Thiên Chúng này sẽ được kéo dài hơn mức quy định.
Người được thác sanh về cõi Trời vẫn chưa thoát ly vòng sanh tử luân hồi, qua khỏi phần thọ mạng ở cõi Trời, sẽ phải trở lại kiếp Người để hành sử nghiệp kế tiếp của mình.
Chủ lễ nên khuyên vong linh, cố gắng tu tập, niệm Phật thật là nhiều, để có thể đến cõi Phật, thoát ly vòng sanh tử luân hồi; nếu chỉ ở cõi Trời lo hưởng phước, hưởng cái thù thắng vi diệu đó, thì khi hết phước, trở xuống cõi trần, lúc đó thiên tai biến động lại chín muồi, thần thức còn khổ nữa. Do đó thần thức phải cố gắng tu tập để thoát ly sanh tử.
Mỗi Ngày Trong Tuần Thứ Bảy:
Đây là tuần lễ cuối cùng của 49 ngày siêu độ. Tuần lễ này vô cùng quan trọng đối với vong, mà cũng là đối với người chủ lễ, vì nó sẽ chứng tỏ được sự thành công của người chủ lễ trong việc siêu độ cho một vong linh, nhất là việc hoán chuyển, từ cảnh giới thấp lên đến cảnh giới cao hơn.
Trong tuần lễ này, người chủ lễ xoay quanh đề tài về: sự tha thứ, phước huệ, hồi hướng về cảnh giới Cực Lạc.
Bài Pháp tham khảo:
Người chủ lễ trình bày cho vong cảnh giới Cực Lạc, sự an nhiên tự tại, và điều vô cùng quan trọng và đáng nói là, một khi vong đã trở thành Thánh Chúng rồi, vong sẽ thoát được vòng Sanh Tử Luân Hồi, không còn nghiệp chướng trùng trùng quấn chặt quanh mình nữa. Với tư cách là một Thánh Chúng, vong sẽ trở lại cõi Ta Bà để cứu độ chúng sanh, trong đó gồm luôn cả chính thân nhân ruột thịt của mình.
Cực Lạc là nơi vong an trụ đời đời, vô thời hạn.
Cõi Trời là nơi vong được hưởng Phước, hưởng những niềm vui bất tận, có thể nói, muốn gì được nấy!
Tuy nhiên Phước báu này cũng không được gọi là vĩnh viễn, vẫn có thời hạn, dài hay ngắn, còn tùy theo công năng tu tập hành Thập Thiện của mỗi chúng sanh, khi còn tại thế.
Người chủ lễ hướng dẫn cho vong niệm Phật thật nhiều … nhiều hơn các ngày trong các tuần trước, giúp cho vong phát nguyện tu tập, trau giồi Tâm – Ý – Tánh và sám hối thật nhiều.
Trong suốt 7 ngày của tuần lễ thứ 7 này, người chủ lễ giúp cho vong tu tập rất nhiều và giờ giảng Pháp cũng nhiều hơn, cốt sao để giúp cho Trí Huệ của vong được sáng lên.
Tuy nhiên, việc lựa chọn giữa hai cảnh giới Trời và Phật là do vong quyết định thì mới được. Người chủ lễ chỉ có bổn phận trình bày hai cảnh giới Trời và Cực Lạc, không thể dự phần vào việc quyết định giùm cho vong được.
Cảnh Giới Cực Lạc
Cảnh giới Cực Lạc đã được diễn tả rất rõ ràng trong Kinh A Di Đà sau đây:
Xá Lợi Phất! Vì sao cõi đó tên là Cực Lạc? Vì cõi đó chúng sinh chẳng có các sự khổ, chỉ hưởng thụ các sự vui, nên gọi là Cực Lạc.
Lại nữa Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có bảy tầng lan can, bảy tầng mành lưới, bảy tầng hàng cây, đều do bốn thứ báu bao bọc chung quanh, cho nên cõi đó gọi là Cực Lạc.
Lại nữa Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc có ao làm bằng bảy báu, nước có tám thứ công đức, đầy dẫy trong đó, đáy ao dùng cát vàng trải làm đất, bốn bên thềm đường, dùng vàng bạc, lưu ly, pha lê hợp làm thành, phía trên có lầu các, cũng dùng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, châu đỏ, mã não nghiêm sức. Hoa sen trong ao, lớn như bánh xe, hoa màu xanh thì ánh sáng xanh, màu vàng thì ánh sáng vàng, màu đỏ thì ánh sáng đỏ, màu trắng thì ánh sáng trắng, tốt đẹp thơm tho trong sạch. Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
Lại nữa Xá Lợi Phất! Cõi Phật đó thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời, mưa xuống hoa trời Mạn Ðà La. Chúng sinh cõi đó, thường vào buổi sáng sớm, đều lấy túi y đựng đầy hoa đẹp, đem đi cúng dường vạn ức Ðức Phật trong mười phương, khi đến bữa ăn bèn trở về nước của mình, ăn cơm xong đi kinh hành. Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
Lại nữa Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có đủ thứ chim lạ đẹp đủ màu như: Chim hạt trắng, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mệnh. Các thứ chim đó, ngày đêm sáu thời, vang ra tiếng hoà nhã. Tiếng đó diễn nói Pháp: năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám thánh đạo, các Pháp như vậy thảy, chúng sinh trong cõi đó, nghe tiếng đó rồi, đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Chúng sanh được vãng sanh về cõi Cực Lạc sẽ đời đời an trụ nơi cõi ấy, thoát được vòng sanh tử luân hồi, không còn bị nghiệp lực triền miên trói buộc.
Ngày Thứ 49
Vào ngày thứ 49 tính từ ngày lâm chung (tức là ngày thứ 7 của tuần thứ 7), vẫn theo nghi thức bình thường; sau khi cho vong sám hối là đến phần trì Chú, niệm Phật (nên nhờ thêm một vài người trong gia đình hoặc bạn bè, quen biết phụ việc niệm Phật cùng với vong).
Trong lúc đó, người chủ lễ khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát để giúp tiễn vong đi, trong lời niệm Phật vang rền của các thân nhân.
Khi khấn xong, người chủ lễ thành tâm niệm danh hiệu của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát trong khoảng thời gian từ 15-20 phút, trong lúc đó thì Ngài cùng với quyến thuộc lo việc tiếp dẫn cho vong linh.
Sau thời gian trì niệm danh hiệu của Ngài, người chủ lễ tụng phần hồi hướng và Tự Tam Quy rồi kết thúc việc siêu độ cho vong!
Nếu vong đủ duyên để về cõi Phật, Thánh Chúng sẽ đến rước.
Nếu vong được sanh về cõi Trời, Tứ Thiên Vương sẽ đến rước.
Nếu vong trở lại cõi Người, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát sẽ đưa đi.
Người chủ lễ cũng phải khấn hai Vị Hộ Pháp và tỏ lời cảm ơn hai Vị đã bảo vệ cho vong trong suốt thời gian 49 ngày. Hôm nay việc siêu độ cho vong đã hoàn mãn, xin cung tiễn hai Vị Hộ Pháp.
GHI NHỚ:
Trong suốt 49 ngày, sau mỗi khóa lễ siêu độ, chủ lễ khấn hai Vị Hộ Pháp để giúp vong hồi vị, đồng thời vị chủ lễ cũng chấp 2 tay nói lớn:
Khóa lễ siêu độ cho vong linh tên ________ đã hoàn tất, xin thỉnh vong linh hồi vị.
Vừa nói vừa đưa 2 tay chấp lại, chỉ thẳng vào hình của vong linh, hơi nhích 2 bàn tay lên.
Tâm của trẻ thơ rất là trong trắng, lời của trẻ thơ thốt ra là một lời chân thật không che đậy, cho nên cần phải dạy cho các cháu niệm Phật hay trì Chú. Một câu niệm Phật của các cháu cũng sẽ giúp cho vong linh rất … rất là nhiều. Câu niệm Phật rất quan trọng, một người niệm Phật với một tâm như như bất động, không bị tâm viên ý mã, nói tóm lại là với một Tâm Bình thì mới phóng hào quang được. Đối với những đứa bé khi niệm Phật, câu niệm Phật của chúng sẽ phóng hào quang, vì đó là một tâm hoàn toàn trong suốt. Người niệm Phật giữ tâm bình, có nghĩa là giữ tâm của một đứa bé (còn được gọi là Tâm Đồng Tử).
Cho nên dạy cho trẻ thơ niệm Phật để siêu độ cho người quá cố thì rất là đúng và cần thiết. Đối với những đứa trẻ có thể trì Chú được, nên dạy cho các cháu câu thần Chú. Nếu trì Chú thì có thể trì Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn, hoặc Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú. Trì 2 câu Chú này mà giữ một tâm bình, tâm trong sáng, thì câu Chú sẽ phóng hào quang rất là chói chang. Vong linh được bao che trong hào quang đó, sẽ cảm thấy nhẹ nhàng thơ thới, và những người đang hành trì việc siêu độ, cũng sẽ được bao che bởi ánh hào quang của Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn, hoặc của Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú.